Trang chủ

Sonntag, November 18, 2012


4. ÐỨC MẸ MARIA ĐƯỢC ĐẦU THAI VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI

Ngày thể xác Mẹ Maria được hình thành là ngày Chúa Nhật, tương ứng với ngày đầu tiên trong công cuộc sáng tạo trời đất. Thể xác Mẹ chỉ tiếp nhận ân sủng, cho nên, toàn thể đều rất trọn vẹn, rất siêu nhiên. Không bao giờ có một thể xác con người nào được hình thành với bấy nhiêu hoàn thiện, bấy nhiêu tinh tế và bấy nhiêu mĩ lệ. Mặc dầu thể xác Mẹ có thể chịu đau khổ, nhưng không hề có một mầm giống bệnh hoạn, chết chóc và hư hoại nào, tức là những hậu quả của hình phạt vì tội lỗi Adong.
Ngày Thứ Bảy tiếp đó, một ngày ứng với ngày nghỉ, ngày đại lễ chung kết cho việc sáng tạo, Thiên Chúa tạo nên linh hồn Mẹ Maria.  Để kỷ niệm biến cố này, Chúa Thánh Thần đã soi sáng cho Giáo Hội dâng ngày Thứ Bảy trong tuần kính Mẹ Maria. Lúc sáng tạo linh hồn đầy phúc đức hơn hết mọi linh hồn này, Thiên Chúa Ba ngôi đã tỏ hết tình âu yếm hơn cả trước khi sáng tạo con người đầu tiên. Ngài nói: " Ta hãy sáng tạo Maria giống hình tượng và tương tự Ta. Ta hãy làm cho Maria nên Nữ Tỳ thật của Ta, nên Hiền Thê thật của Ta, để Maria xứng đáng làm Mẹ Con duy nhất của Cha hằng hữu". Sau khi sáng tạo linh hồn Mẹ rồi, Chúa Ba Ngôi còn kêu lên một cách khoái thú hơn ở địa đường ngày trước rất nhiều: " Tất cả mọi phương diện nơi Maria đều hoàn toàn thiện mỹ".
Thật vậy, không những linh hồn Mẹ không mắc tội nguyên tổ, mà còn rực rỡ với những ơn cao cả Thiên Chúa ban riêng, tới cao độ tuyệt vời, đến nỗi tất cả các bậc thần thánh hợp một cũng không thể sánh lại được.  Không ngôn ngữ loài người nào có thể diễn tả được. Khi vừa được sáng tạo, linh hồn Mẹ đã hợp nhất ngay với xác thể đang chờ linh hồn.  Đó là sự Đầu Thai Vô Nhiễm.
Chúa ban cho Mẹ những ơn lạ lùng không thể tưởng: Trí khôn Mẹ được thấu hiểu các mầu nhiệm về Thần tính, về Chúa Ba Ngôi, về ơn Nhập Thể và Cứu Chuộc, về những vẻ đẹp đẽ của cuộc sáng tạo trời đất, về thiên thần và loài người, về lịch sử dân riêng Chúa chọn, các Tổ phụ, các tiên tri, thiên đàng, luyện ngục, ngục tổ tông, và hỏa ngục. Linh hồn Mẹ được trang điểm bằng những ơn Thánh và các nhân đức với một mức độ hoàn toàn cao siêu.
Vì Mẹ vượt trên các thiên thần và loài người, nên khi vừa đầu thai,  Mẹ Maria đã làm những việc nhân đức hợp với cấp bậc trong thai của Mẹ. Mẹ đã dâng lên Thiên Chúa những việc  tôn thờ, ca tụng, biết ơn, yêu mến, để phụng sự Người và cho vinh quang Người.  Mẹ cũng sấp mình trước Oai Nghi Thiên Chúa để tỏ lòng tôn thờ bề ngoài.  Mẹ đã dâng lên Thiên Chúa lời cầu xin cho loài người,  cũng như cầu xin cho Đấng Cứu Chuộc mau đến giải thoát loài người khỏi ách nô lệ ma quỉ.
Ngay còn trong thai, Mẹ đã thực hiện những việc thờ phượng Chúa, nên Mẹ đã lập công trạng lớn lao hơn  tất cả các thánh sau này.

Lời Mẹ nhắn nhủ:
Con hãy chú ý và tin tưởng lắng nghe Mẹ. Mẹ sẽ nói cho con nghe những lời hoàn thiện nhất, những lời sinh sự sống đời đời…
"Con người, khi vừa biết dùng trí khôn, phải thờ lạy, yêu mến, phụng sự và tôn vinh Đấng Sáng Tạo nên mình như Chúa độc nhất tối cao.
Các bậc cha mẹ có trách vụ tự nhiên là phải dạy dỗ con cái mình về điều ấy ngay từ khi chúng hiểu biết, và phải hướng dẫn chúng về Thiên Chúa là cùng đích sau cùng của chúng.  Họ phải hướng dẫn chúng bỏ những trò trẻ con phóng túng đưa tới sa ngã.  Ngay trước khi chúng sinh ra, họ đã phải nhiệt thành cầu xin cho chúng được thoát khỏi cảnh nô lệ tội tổ tông qua Bí tích Rửa tội rồi..."
Nguồn:  THẦN ĐÔ HUYỀN NHIỆM

Montag, November 12, 2012

Maria, Thành Nazaréth
I. THƯA MẸ, MẸ LÀ AI?
Chúng ta có quyền và có nhiệm vụ hỏi Mẹ Maria câu này: “Thưa Mẹ, Mẹ là ai?”. Trước khi tìm cách tôn kính Mẹ Maria thì chúng ta phải bận tâm tìm hiểu Mẹ hơn. Nhưng tìm hiểu Mẹ Maria không phải là việc dễ. Chúng ta vấp phải một nghịch lý. Đàng khác người thiếu nữ Do Thái ấy không giữ một vai trò nào trong đời sống tôn giáo, xã hội, chính trị hoặc văn hóa trong thời đại của nàng và trong xứ sở nàng đã sống. Không một sử gia nào nhắc đến tên nàng. Ngoài ra, chính người thiếu nữ ấy đã táo bạo tiên báo “mọi thế hệ sẽ khen nàng diễm phúc”. Điều lạ lùng nhất là lời tiên tri ấy đã được thực hiện một cách vẻ vang.
Từ buổi đầu của Kitô giáo, Mẹ Maria đã được tán dương bằng mọi cách và trong mọi ngôn ngữ. Thế kỷ XII, thánh Bernardo đã gọi Mẹ Maria là: “Trung tâm thế giới, là công trình của thế kỷ”. Thánh nhân giải nghĩa: “Mọi người đều hướng nhìn về Mẹ, những người ở trên trời, những người ở dưới vực sâu, những người đã sống trước chúng ta, những người đang sống với chúng ta và sẽ đến sau chúng ta, con cái của những con cái chúng ta, và những con cái sẽ sinh ra bởi chúng. Những người trên trời mong chờ những chỗ trống có người ở; những người dưới vực sâu trông mong chóng ra khỏi nơi ấy; những người đến trước chúng ta chờ chực những lời hứa chóng thành tựu; và những người đến sau chúng ta ngóng trông chóng được hiển vinh”.
“Lạy Mẹ Thiên Chúa, lạy Nữ hoàng vụ trụ, lạy Nữ vương Thiên đàng, phải, tất cả các thế hệ sẽ khen Mẹ diễm phúc, vì Mẹ đã sinh ra cho tất cả các thế hệ sự sống và sự hiển vinh. Trong Mẹ, các Thiên Thần tìm được niềm hoan lạc, các người công chính gặp được ân sủng, các tội nhân phục hồi ơn tha thứ, cho đến muôn đời” (Pent 2.4).
Tuy nhiên, nói về Mẹ Maria là điều rất khó. Mẹ đơn giản đến nỗi không có một cái gì đáng nói. Không một cái gì trong kiếp phù sinh của Mẹ khêu gợi tính tò mò của chúng ta được lâu dài. Mẹ không phải là một nhân vật tiểu thuyết, Mẹ càng không làm nên một luận đề cho khoa cổ sử. Trái lại, Mẹ liên can một cách mật thiết với mầu nhiện Con Thiên Chúa làm người mà Mẹ không thể chia lìa được với mầu nhiệm này. Đối với câu hỏi: “Thưa Mẹ, Mẹ là ai?”. Mẹ sẽ dùng lời ca vinh Magnificat mà trả lời chúng ta thế này: “Chúa đã trông đến sự thấp hèn tôi tá Chúa… Đấng Toàn năng đã làm cho Mẹ những sự trọng đại” (Lc 1.48).
Về phương diện loài người, Mẹ Maria không làm một sự gì có thể phân biệt Mẹ ra khỏi các phụ nữ khác sống trong thời Mẹ và trong mọi thời. Sự khác biệt lớn lao đặt Mẹ Maria vào một vị thế hoàn toàn ngoại trừ, và trên tất cả các phụ nữ khác là vì những gì Thiên Chúa đã làm cho Mẹ, trong Mẹ và nhờ Mẹ. Thiên Chúa đã nhìn Mẹ với một cách nhìn khác hẳn nơi các tạo vật khác. Trước mọi thời gian, Thiên Chúa đã trông thấy và đã muốn việc nhập thể của Con Ngài; Thiên Chúa đã trông thấy và đã muốn một người Mẹ cho Người Con mà Ngài sẽ ban cho thế gian. Cũng một cái nhìn ấy Thiên Chúa đã thấy Con và Mẹ. Rồi cũng một cái nhìn và cũng một tình yêu ấy, Thiên Chúa đã bao quát tất cả chúng ta trong Chúa Giêsu và trong Mẹ Maria.
Mẹ Maria không phải là ánh sáng, nhưng Mẹ hoàn toàn trong sáng. Aùnh sáng, ánh sáng thật là Chúa Giêsu Kitô. Ngài là ánh sáng vĩnh cửu, vô hình, tự hữu và Mẹ Maria đã làm cho chúng ta trông thấy được ánh sáng tự hữu ấy. Theo kinh Tiền tụng của các lễ kính Đức Trinh Nữ Maria thì Mẹ “đã chiếu dãi vào thế gian ánh sáng vĩnh cửu là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con”. Mẹ Maria trong ánh sáng, Mẹ không đặt một ngãng trở nào cản ngăn ánh sáng; hơn nữa, Mẹ còn cho phép chúng ta thỏa thuê thưởng thức ánh sáng.
Người ta có thể so sánh Mẹ Maria với một cửa sổ kính mầu. Cửa sổ kính mầu không phải là ánh sáng, nó khác với ánh sáng, nhưng nó không thể chia lìa ra khỏi ánh sáng. Không có ánh sáng thì cửa sổ kính mầu không là gì, không có vẻ đẹp và cũng không có gì là hứng thú. Đối với Mẹ Maria cũng thế. Nếu chúng ta nhìn Mẹ ngoài ánh sáng của Con Mẹ, và không đặt Mẹ vào trong viễn tượng của sứ mệnh Thiên Chúa ký thác cho Mẹ thì Mẹ không có gì quyến dũ được trí lòng chúng ta. Nếu trái lại, chúng ta nhìn ngắm Mẹ trong ánh sáng huy hoàng Mẹ chiếu giãi vào thế gian, thì Mẹ trở nên cho chúng ta một hứng thú phi thường. Cửa sổ kính mầu cho phép chúng ta tha hồ nghiên cứu những tia sáng đang chờn vờn trên mặt các kính mầu và mầu sắc thay đổi tuỳ theo thời gian trong ngày và độ tối của các tia sáng.
Còn hơn thế nữa khi nói về Mẹ Maria, vì Mẹ là một cửa sổ kính mầu sống động và hay thương. Mẹ hoàn toàn trinh trong, trinh trong về trí khôn và về tâm hồn. Nếu một nghệ sĩ, hoặc một thi sĩ có thể dùng tài ba diễn tả lại vẻ đẹp của tia sáng mặt trời chiếu qua một cửa sổ kính mầu trong một nhà thờ chính tòa thì nghệ sĩ và thi sĩ ấy lại không tài nào vẽ lại được sự rực rỡ của Mẹ Maria. Cửa sổ kính mầu dầu có giá trị đến đâu đi nữa cũng chỉ là vật bất động. Nghệ sĩ làm nên cửa sổ kính mầu cũng bị giới hạn, và mặt trời không phải lúc nào cũng chiếu xuống như nghệ sĩ mong muốn. Đối với Mẹ Maria thì nghệ sĩ là chính Thiên Chúa, ánh sáng là ánh sáng sống động, ánh sáng rực cháy, tình yêu vĩnh cửu.
Trong sách Khải Huyền, thánh Gioan nói đến một điều lạ vĩ đại hiện ra trên trời như sau: “Một người Nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12.1). Đây là điềm chỉ Giáo hội, nhiệm thể Chúa Kitô, còn đang bị con rồng tấn công. Đây cũng là điềm chỉ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ là phụ nữ đích thực mặc mặt trời. Mẹ là hình tượng thế mạt của Giáo hội, nghĩa là Giáo hội đã được hình thành, được nhắc đến một cách bóng bảy. Ngôi Lời Thiên Chúa, ánh sáng vĩnh cửu, bắt đầu giãi sáng trên thế gian trong Mẹ và nhờ Mẹ.
Vì thế rất khó mà nói về Mẹ Maria một cách thỏa đáng. Những từ ngữ của chúng ta quá nghèo nàn, không diễn tả nổi ánh sáng huy hoàng chiếu toả ra từ gương mặt Mẹ. Đàng khác, để phác họa ánh sáng chúng ta lại bó buộc phải dùng những bóng tối. Người ta hiểu được rằng chính nghi lễ cũng nhận thức được nỗi bất lực của mình nên đã gói gồm mầu nhiệm Mẹ Maria trong những ngôn từ. Một đáp ca của nghi lễ Sinh Nhật đã đọc như sau: “Hỡi Mẹ Đồng Trinh thánh thiện và tinh tuyền, con biết lấy lời nào để tán tụng Mẹ? Con không biết lấy lời nào vì Đấng mà trời đất không thể nào chứa đựng được thì Mẹ lại cưu mang trong lòng mình”.
Người ta đã diễn tả nỗi khó khăn nói về Mẹ một cách phải lẽ bằng câu ngạn ngữ sau đây được gán cho thánh Bernardo, nhưng thật ra không phải của ngài: “ De Maria nunquam satis: Nói về Maria không bao giờ cùng!” Câu ấy có nghĩa là người ta không bao giờ thỏa mãn về những điều người ta đã nói để tôn vinh Mẹ Maria, vì không thể nào gói gồm trong những từ ngữ nhân loại mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể. Câu ấy cũng có nghĩa là người ta có thể để ý đến từng phần của mầu nhiệm rồi tìm hiểu những phong phú tiềm ẩn bên trong, nhưng người ta hoàn toàn bất lực không thể diễn tả nổi tất cả chiều sâu của mầu nhiệm.
Câu: “De Maria nunquam satis” diễn tả lòng khát khao hiểu biết, yêu mến và tán dương Mẹ Maria mỗi ngày một hơn, nhưng lại có thể hoàn toàn hiểu lầm và cuối cùng dẫn đưa đến một sai lầm về tín lý. Một số người lại cho rằng câu ấy có nghĩa thế này: người ta có thể nói về Mẹ Maria tất cả những gì người ta muốn mà không sợ qúa thuyết. Hãy ý tứ! Khi người ta lạc đường thì bất kể người ta đổi chiều về tay trái hay hướng về tay mặt. Trong vấn đề nầy hơn mọi vấn đề khác, khi người ta nói về Mẹ Maria Mẹ Thiên Chúa người ta phải rất ý tứ đến ý nghĩa của từng từ ngữ, nghĩa là người ta phải chắc về ý nghĩa của mọi từ ngữ theo thần học. Tất cả những gì liên quan đến Mẹ Maria hoặc gần hoặc xa thì đồng thời cũng liên hệ với Con Mẹ. Nếu người ta phóng đại những đường nét chính của một gương mặt, người ta sẽ làm cho gương mặt bị dị dạng, sẽ trở nên không nhìn ra nữa, và không mấy chốc trở thành bức hoạt họa. Người ta đã làm sai lạc gương mặt Mẹ Maria thì cũng vì thế người ta sẽ làm cho gương mặt Chúa Kitô trở nên méo mó.
Trong những người nói về Mẹ Maria hùng hồn hơn hết có thánh Bernardo chiếm một vị thế rất tốt đẹp. Tuy nhiên ngài đã thú nhận thế này: “Chắc chắn không một sự gì làm say mê lòng tôi và đồng thời cũng làm cho lòng tôi khiếp sợ bằng việc cao rao vinh quang Mẹ Đồng Trinh. Đã hẳn, mọi người đều bước theo Mẹ, đều tôn kính Mẹ, đều tiếp đón Mẹ với những tâm tình mà mỗi người sướng vui nên khi nói về Mẹ. Nhưng, tất cả những gì người ta nói về một điều khôn tả tai trở nên ít hứng thú, ít khoái trá và ít đang tiếp nhận, chỉ vì người ta không thể diễn tả nổi” (Ass 4.5).
Phải, khó mà nói về Mẹ Maria vì Mẹ vượt quá mọi phạm trù của chúng ta. Nhưng đây lại là một nhu cầu và một nhiệm vụ đối với một người con phải tìm hiểu Mẹ mình hơn ngõ hầu có thể nói về Mẹ một cách bớt bất xứng hơn. Đây là một nhiệm vụ phải nói về Mẹ Maria, vì Mẹ rât ít được biết đến, và rất hay bị lãng quên. Biết bao điều người ta đã nói hoặc đã viết về Mẹ, nhưng lại là những điều không thật. Ngày nay hơn bất cứ thời đại nào, người ta chối bỏ con người của Mẹ, Thiên chức Mẹ Thiên Chúa của Mẹ, đức Đồng trinh của Mẹ và địa vị của Mẹ trong Giáo hội. Tất cả những bóng tối người ta chiếu giãi xuống gương mặt Mẹ Maria tất nhiên làm cho gương mặt của Chúa Kitô và gương mặt của Giáo hội trở nên xấu dạng.
Một vài người khác, có lòng ngay ít nhiều, nhưng không được hướng dẫn một cách chắc chắn, lại sợ rằng trong khi nghiên cứu mầu nhiệm Mẹ Maria, người ta sẽ bỏ quên hoặc nhiều hoặc ít con người Chúa Kitô. Lo sợ như thế chỉ là hão huyền. Một cuộc nghiên cứu đứng đắn về nhân vị Mẹ Maria và về sứ mạng Thiên Chúa đã ký thác cho Mẹ bao giờ cũng đưa đến chỗ làm sáng tỏ mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Nói ngược lại, người ta càng suy ngắm Chúa Kitô, người ta càng tìm ra cái tầm mức quan trọng mà Thiên Chúa đã ban cho Mẹ Maria trong việc hiện thực biến cố lạ lùng ấy.
Thật là vô ích nếu chúng ta tự hỏi có nên dành cho Mẹ Maria một địa vị nhỏ hoặc lớn trong đời sống chúng ta không. Chúng ta không có nhiệm vụ dành cho Mẹ một địa vị, chính Thiên Chúa đã tự giữ cho mình nhiệm vụ này, và Chúa thi hành mọi sự với đức khôn ngoan và tình yêu. Chúng ta có thể hoàn toàn tín nhiệm vào Thiên Chúa. Chúng ta chỉ phải tìm hiểu xem Chúa đã ban cho Mẹ một địa vị nào trong Giáo hội. Lúc ấy chúng ta sẽ thán phục mà chấp nhận những gì Thiên Chúa đã làm; chúng ta sẽ dành cho Mẹ, trong đời sống của chúng ta, tất cả địa vị mà Thiên Chúa đã ban cho Mẹ.
Thật ra, Thiên Chúa không cần đến Mẹ Maria để ban Con mình cho thế gian. Thiên Chúa không cần một ai, không cần Mẹ Maria, và cũng không cần bất cứ một ai khác. Chúng ta chắc chắn điều này là: “chính tình yêu qúa độ Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta” (Eph 2.4), tình yêu ấy đã thúc đẩy Thiên Chúa tuyển chọn Mẹ Maria. Đây là quyền của Thiên Chúa, và chúng ta không có quyền cật vấn tại sao Thiên Chúa lại hành động như thế.
Bác bỏ mầu nhiệm Mẹ Maria là làm lăng nhục cho đức khôn ngoan và lòng nhân hậu Thiên Chúa, là từ chối không muốn bước vào hoàn toàn trong kế hoạch Thiên Chúa và nghi ngờ tình yêu mênh mông của Chúa.
Người ta gọi Mẹ Maria là Rạng Đông, điều ấy đúng. Tất cả vẻ đẹp của rạng đông đều phát xuất từ mặt trời mà người ta chưa trông thấy, nhưng người ta đã trông thấy những tia sáng tác phúc. Không mặt trời, rạng đông sẽ không có vẻ huy hoàng; không Chúa Kitô, Mẹ Maria sẽ không có ánh sáng.
Người ta còn gọi Mẹ Maria là Sao Mai. Biệt hiệu thi vị này chứa đựng một thực tại cao siêu. Tinh tú mà chúng ta gọi là sao mai chỉ là một hành tinh tự mình không có sức nóng, mà cũng không có ánh sáng. Vì sao mai sáng nên người cổ thời gọi là sao Lucife, nghĩa là sao mang ánh sáng. Sau đấy, người ta gọi là sao Vệ nữ (Venus) vì vẻ đẹp của nó. Tất cả vẻ đẹp của sao mai đều xuất phát từ khả năng tiếp nhận ánh sáng mặt trời rồi chiếu giãi xuống trái đất chúng ta.
Sao mai luôn luôn ở gần mặt trời hơn trái đất chúng ta. Chúng ta có thể trông thấy nó vào buổi sáng khi hừng đông ló rạng, hoặc buổi chiều khi hoàng hôn đổ xuống. Bao giờ sao mai cũng báo hiểu sự hiện diện của mặt trời mà xung quanh mặt trời sao mai vẫn xoay vần. Khi trời bắt đầu sáng, sao mai báo trước mặt trời sắp mọc mặc dầu ta chưa trông thấy mặt trời. Khi sao mai xuất hiện ban chiều thì lại có tên là sao hôm, sao mục tử. Nó cho người mục tử coi giữ đàn súc vật biết rằng đã đến lúc phải về nhà để nghỉ đêm. Sao hôm cũng chứng tỏ rằng mặt trời đã khuất khỏi mắt chúng ta nhưng vẫn còn chiếu sáng.
Trong vũ trụ thiêng liêng của chúng ta, Mẹ Maria là sao mai báo trước Chúa Kitô đích thật hiện diện, mặc dầu chúng ta chưa trông thấy Ngài. Mẹ cũng là ngôi sao hôm, ngôi sao mục tử sáng chói trên bầu trời khi màn đêm tăm tối bao phủ xuống chúng ta, khi những thử thách dằn vặt chúng ta, và khi mối nghi ngờ cản trở chúng ta. Mẹ Maria là mẹ của mục tử chân chính, của mục tử nhân hậu thí mạng sống mình vì đàn chiên. Mẹ là dấu chỉ hy vọng, là tang chứng cho sự hiện diện và sự rạng ngời của Con Mẹ là mặt trời công chính. Vũ trụ chúng ta sẽ ra sao nếu không có tinh tú? Đời chúng ta sẽ ra sao nếu không có Mẹ Maria.
Chúng ta đừng sợ mà hỏi Mẹ Maria câu này: “Thưa Mẹ, Mẹ là ai? Mẹ là ai đối với Thiên Chúa? Mẹ là ai đối với Chúa Kitô? Mẹ là ai đối với chúng con? Chúng ta sẽ có được câu trả lời khi tìm kiếm trong Thánh Kinh, trong Cựu và Tân Ước, trong giáo thuyết của Giáo hội, và trong lễ nghi. Chúng ta cũng sẽ tìm được câu trả lời trong thâm tâm chúng ta. Chính Mẹ Maria sẽ dạy chúng ta biết Mẹ là ai đối với Chúa Kitô và đối với chúng ta. Thánh Gioan đã viết cho các giáo hữu tiên khởi như sau: “Ơn xức dầu anh em nhận được bời Ngài (Chúa Kitô) sẽ dạy dỗ anh em mọi sự” (1Jn 2.27). Dầu là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa tội, và chính Thánh Thần ấy “hướng dẫn chúng ta đến chân lý toàn vẹn” (Jn 16.13).
Mẹ Maria là người đã sinh ra Chúa Giêsu gọi là Kitô (Mt 1.16). Chúa Giêsu là “Con duy nhất Thiên Chúa, sinh bởi Chúa Cha từ trước muôn đời; Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật” (Kinh Tin Kính) Thiên Chúa ấy sinh ra bởi Thiên Chúa đồng thời cũng sinh ra bởi một người nữ, người nữ đó là Mẹ Đồng Trinh Maria. Mẹ đúng là một phụ nữ tuyệt diệu, rất gần gũi Thiên Chúa, nhưng cũng rất gần gũi chúng ta. Mẹ là sự khoan thứ kỳ diệu của Thiên Chúa, và số mệnh Mẹ là số mệnh khôn sánh của một phụ nữ thuộc nòi giống chúng ta.

Montag, November 05, 2012

Đường Hy Vọng dưới ánh sáng
Lời Chúa và Công Đồng



962. Con người hy vọng để sống, để tiếp tục sống. Con người sẽ quay về với ai có thể mang lại cho họ niềm hy vọng lớn lao nhất.
Niềm hy vọng ấy Chúa Giêsu đã quả quyết: «Ta đã đến, là để chúng được có sự sống, và có một cách dồi dào»(Ga 10,10).
Niềm hy vọng ấy, Chúa ban qua tay Mẹ Maria: «Nguồn hy vọng của chúng con».
963. Giáo dân là người mến yêu sứ mệnh trần thế của mình, là người thực hiện đời đời trong đời tạm.
- Là người tin rằng Chúa giao cho mình trần gian và anh em, để đưa họ đến cứu rỗi vĩnh cửu.
- Là người xác tính rằng Chúa ban ơn cứu rỗi, nhưng Chúa đòi sự hợp tác của con người.
Biết hy vọng, bảo đảm hy vọng, mang lại hy vọng.
MV 21c: Giáo hội còn dạy rằng hy vọng cánh chung không làm giảm tầm quan trọng những bổn phận ở trần gian này mà trái lại còn tạo thêm những động lực mới giúp hoàn tất những bổn phận ấy. Vả lại, nếu thiếu căn bản là Thiên Chúa và thiếu niềm hy vọng vào đời sống trường cửu thì phẩm giá con người bị tổn thương cách trầm trọng như thường thấy ngày nay, và những bí ẩn về sự sống, sự chết, về tội lỗi và đau khổ vẫn không giảp đáp được, như thế con người nhiều khi rơi vào tuyệt vọng.
(Xem thêm: GH 31b, 35a; MV 34c, 39b, 93a; TĐ 5a, 7e, 27).
964. Người hy vọng là người cầu nguyện. Đối tượng của lời cầu nguyện cũng là đối tượng của niềm hy vọng. Người hy vọng là cộng tác viên của Thiên Chúa.
Ngài tìm gọi họ để hoàn tất việc tạo dựng và cứu chuộc của Ngài.
Cl 1,24: Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh.
Trích:  Đức Hồng Y Phanxicô Xavier NGUYỄN VĂN THUẬN

Sonntag, November 04, 2012

TÔNG THƯ – TỰ SẮC PORTA FIDEI

PORTA FIDEI
Tông thư – Tự sắc của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, công bố Năm Đức Tin 2012 – 2013
1. “Cánh cửa đức Tin” (x. Cv 14, 27) dẫn vào đời sống kết hiệp với Thiên Chúa, đồng thời mở ra con đường bước vào Giáo hội, vẫn luôn mở rộng cho chúng ta. Chúng ta có thể bước qua ngưỡng cửa đó khi Lời Chúa được loan báo và để cho ơn biến đổi uốn nắn tâm hồn. Bước qua cánh cửa đó là dấn bước vào một cuộc hành trình kéo dài suốt đời. Hành trình này bắt đầu bằng bí tích Rửa Tội (x. Rm 6, 4), nhờ đó chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là Cha, và hoàn tất với việc vượt qua cái chết, tiến đến sự sống đời đời, là hoa quả sự phục sinh của Chúa Giêsu, Đấng đã dùng ơn Chúa Thánh Thần mà muốn cho tất cả những ai tin nơi Người đều được thông phần vào vinh quang của Người (x. Ga 17, 22). Tuyên xưng niềm tin nơi Chúa Ba Ngôi – Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần – chính là tin vào một Thiên Chúa duy nhất, Đấng là Tình yêu (x. 1 Ga 4, 8): Chúa Cha, khi đến thời viên mãn, đã sai Con của Người đến cứu độ chúng ta; Chúa Giêsu Kitô đã chuộc tội trần gian trong mầu nhiệm sự chết và phục sinh của Người; Chúa Thánh Thần dẫn dắt Giáo hội qua các thời đại, đang khi mong chờ cuộc quang lâm vinh hiển của Chúa.
2. Khi bắt đầu đảm nhận sứ vụ Kế vị Thánh Phêrô, tôi đã nhắc đến việc cần phải tái khám phá hành trình đức Tin để luôn làm nổi bật niềm vui và niềm hưng phấn mới của việc gặp gỡ Đức Kitô. Trong Bài giảng Thánh lễ khai mạc sứ vụ Giáo hoàng, tôi đã nói: “Toàn thể Giáo hội và các Mục tử trong Giáo hội, cũng như Đức Kitô, phải lên đường để đưa con người ra khỏi sa mạc, đến nơi có sự sống, đến việc làm bạn với Con Thiên Chúa, đến với Đấng ban cho chúng ta sự sống, sự sống dồi dào” [1]. Tuy nhiên, các Kitô hữu lại thường quan tâm nhiều hơn tới những kết quả của sự dấn thân về phương diện xã hội, văn hóa và chính trị, cứ tưởng rằng đức Tin là tiền đề hiển nhiên của đời sống xã hội. Nhưng thực tế cho thấy tiền đề ấy không chỉ không còn được coi là hiển nhiên nữa mà thậm chí còn thường bị phủ nhận. [2]. Trong khi ngày xưa, có thể nhận ra một hệ thống văn hóa thống nhất, được nhiều người chấp nhận, có tham chiếu nội dung đức Tin và những giá trị chịu ảnh hưởng của đức Tin, thì ngày nay, trong các lãnh vực lớn của xã hội có lẽ không còn như vậy nữa, do cuộc khủng hoảng sâu sắc về đức Tin đã ảnh hưởng tới nhiều người.
3. Chúng ta không thể chấp nhận để muối nhạt đi và ánh sáng bị che khuất (x. Mt 5, 13-16). Con người ngày nay, cũng giống như người phụ nữ Samaria, có thể cũng lại cảm thấy cần phải đến bên giếng nước để lắng nghe Chúa Giêsu, Đấng mời gọi hãy tin vào Người và múc lấy nước hằng sống từ Người trào ra (x. Ga 4, 14). Chúng ta phải tìm lại niềm vui thích nuôi dưỡng mình bằng Lời Chúa được Giáo hội trung thành truyền lại, và bằng Bánh Hằng Sống, được ban cho để nâng đỡ tất cả những ai làm môn đệ Chúa (x. Ga 6, 51). Quả thật, giáo huấn của Chúa Giêsu vẫn còn vang dội mạnh mẽ trong thời đại chúng ta: “Các con hãy làm việc không phải để được của ăn hay hư nát, nhưng để được lương thực thường tồn” (Ga 6, 27). Câu hỏi đã được mọi người nghe Chúa nói đặt ra, cũng là câu hỏi của chúng ta ngày nay: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” (Ga 6, 28). Chúng ta biết Chúa Giêsu trả lời ra sao: “Việc Thiên Chúa muốn là: Anh em hãy tin vào Đấng mà Người đã sai đến” (Ga 6, 29). Vậy, tin vào Chúa Giêsu Kitô chính là con đường chắc chắn đạt tới ơn cứu độ.
4. Từ những điều nói trên, tôi quyết định mở một Năm Đức Tin. Năm Đức Tin sẽ bắt đầu từ ngày 11 tháng Mười 2012, nhân kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng Vatican II, và sẽ kết thúc vào ngày đại lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, 24 tháng Mười Một 2013. Ngày 11 tháng Mười 2012, cũng sẽ diễn ra lễ kỷ niệm 20 năm xuất bản Sách Giáo Lý Hội Thánh Công giáo, được vị Tiền nhiệm của tôi, Đức Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II [3] ban hành, với mục đích trình bày cho mọi tín hữu sức mạnh và vẻ đẹp của đức Tin. Văn kiện này là thành quả đích thực của Công đồng Vatican II. Thượng Hội đồng Giám mục khóa họp ngoại thường năm 1985 đã mong ước văn kiện này được sử dụng trong việc dạy giáo lý [4]; và toàn thể hàng Giám mục của Giáo hội Công giáo đã cộng tác thực hiện văn kiện này. Chính tôi cũng đã triệu tập Đại hội toàn thể Thượng Hội đồng Giám mục vào tháng Mười năm 2012 về đề tài Tân Phúc âm hóa để thông truyền đức Tin Kitô giáo. Đây sẽ là một cơ hội thuận lợi để đưa toàn Giáo hội bước vào một giai đoạn suy tư đặc biệt và tái khám phá đức Tin. Đây không phải lần đầu tiên Giáo hội được kêu gọi cử hành Năm Đức Tin. Vị Tiền nhiệm đáng kính của tôi, Tôi tớ Chúa Phaolô VI cũng đã ấn định Năm Đức Tin tương tự vào năm 1967, để kỷ niệm cuộc tử đạo của hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, nhân 1900 năm cuộc làm chứng cao cả của các ngài. Đức cố giáo hoàng đã nghĩ đến việc kỷ niệm này là một thời điểm long trọng để toàn thể Giáo hội chính thức và chân thành “tuyên xưng cùng một đức Tin”; ngoài ra, ngài mong muốn đức Tin được củng cố “về phương diện cá nhân cũng như tập thể, có tự do và ý thức, nơi nội tâm cũng như bên ngoài, khiêm tốn và chân thành” [5]. Ngài tin rằng bằng cách này toàn thể Giáo hội sẽ “ý thức rõ rệt hơn về đức Tin của mình, để làm tươi mới đức Tin, thanh luyện, củng cố và tuyên xưng đức Tin” [6]. Những xáo trộn lớn diễn ra trong Năm Đức Tin ấy càng cho thấy rõ cần phải có một cuộc cử hành như thế. Năm Đức Tin ấy đã kết thúc với Bản Tuyên xưng Đức Tin của Dân Chúa [7], cho thấy có biết bao nội dung cốt yếu từ các thế kỷ qua, vốn là gia sản của mọi tín hữu, cần phải được củng cố, hiểu biết và ngày càng đào sâu hơn, để đưa ra chứng từ phù hợp với hoàn cảnh lịch sử đã khác xưa.
5. Trong một số khía cạnh, vị Tiền nhiệm đáng kính của tôi đã coi Năm Đức Tin ấy như “một hệ quả và là một yêu cầu của thời hậu Công đồng” [8], ngài ý thức rõ về những khó khăn nghiêm trọng của thời đại, nhất là về việc tuyên xưng đức Tin chân thật và sự giải thích đức Tin đúng đắn. Tôi cho rằng việc khởi sự Năm Đức Tin trùng với dịp kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng Vatican II có thể là một cơ hội thuận lợi để hiểu rằng các văn kiện Công đồng, được các Nghị phụ để lại như di sản, - theo như lời Chân phước Gioan Phaolô II - “không hề mất giá trị và vẻ ngời sáng”. Các văn kiện ấy cần phải được đọc một cách đúng đắn, được phổ biến rộng rãi và tiếp nhận thấu đáo như những văn kiện quan trọng và mang tính quy phạm thuộc Huấn quyền, trong Truyền thống của Giáo hội… Hơn bao giờ hết tôi cảm thấy nghĩa vụ phải nói rõ Công đồng chính là hồng ân Giáo hội được hưởng trong thế kỷ XX: Công đồng mang lại cho chúng ta một chiếc la bàn đáng tin cậy để định hướng trong cuộc hành trình thế kỷ đang mở ra” [9]. Tôi cũng muốn mạnh mẽ nhắc lại những gì tôi đã nói về Công đồng sau vài tháng được bầu lên kế vị Thánh Phêrô: “Nếu chúng ta đọc và đón nhận Công đồng, với sự giải thích đúng đắn, thì Công đồng ngày càng sẽ và luôn trở thành một nguồn lực lớn lao cho việc thực hiện cuộc canh tân vốn luôn cần thiết đối với Giáo hội” [10].
6. Cuộc canh tân Giáo hội cũng còn được thực hiện qua chứng từ cuộc sống của các tín hữu: quả vậy, bằng chính sự hiện diện của mình trong thế giới, các tín hữu được mời gọi làm ngời lên Lời Chân lý Chúa Giêsu để lại cho chúng ta. Chính Công đồng, trong Hiến chế tín lý Lumen Gentium, đã khẳng định: “Trong khi Chúa Kitô, ‘thánh thiện, vô tội, không tì vết’ (Dt 7, 26) không hề biết đến tội lỗi (x. 2 Cr 5, 21), chỉ đến mà chuộc tội cho dân (Dt 2, 17), thì Giáo hội, mang trong lòng mình những kẻ tội lỗi, vì thế, Giáo hội là thánh thiện đồng thời cũng được kêu gọi thanh luyện chính mình, không ngừng phải nỗ lực thống hối và canh tân. Giáo hội “tiến bước trong cuộc lữ hành qua những cuộc bách hại của trần thế và những an ủi của Thiên Chúa”, loan báo cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa cho đến khi Chúa đến (x. 1 Cr 11,26). Quyền năng của Chúa Phục sinh giúp cho Giáo hội thắng vượt –với lòng nhẫn nại và yêu thương– những buồn sầu và khó khăn xảy đến cho Giáo hội từ bên ngoài và cả từ bên trong, và trung thành bày tỏ mầu nhiệm của Chúa giữa lòng thế giới, mầu nhiệm ấy dù còn bị bóng tối che khuất nhưng cuối cùng sẽ đến ngày hiển lộ trong ánh quang rạng ngời” [11]’.
Trong viễn cảnh này, Năm Đức Tin là lời mời gọi hãy hoán cải một cách đích thực và được đổi mới, trở về với Chúa là Đấng duy nhất cứu độ thế giới. Trong mầu nhiệm cái chết và phục sinh của Người, Thiên Chúa đã mặc khải trọn vẹn Tình yêu cứu độ và kêu gọi con người hoán cải cuộc sống nhờ được tha thứ tội lỗi (x. Cv 5, 31). Đối với Thánh Phaolô Tông đồ, Tình yêu ấy dẫn con người đến cuộc sống mới: “Qua phép Rửa, chúng ta đã được mai táng với Người trong sự chết, để như Chúa Kitô sống lại từ cõi chết nhờ vinh quang của Chúa Cha, chúng ta cũng sẽ được sống trong sự sống mới” (Rm 6, 4). Nhờ đức Tin, sự sống mới này làm khuôn mẫu cho toàn thể cuộc sống con người theo sự mới mẻ tuyệt đối của sự sống lại. Tùy theo mức độ sẵn sàng vâng theo ý Chúa, mọi tư tưởng và tình cảm, tâm trí và hành vi của con người dần dần được thanh luyện và biến đổi, trong một cuộc hành trình chẳng bao giờ được hoàn tất ở đời này. Đức Tin “hành động qua đức ái” (Gl 5, 6) trở thành một chuẩn mực mới giúp thông hiểu và hành động, làm thay đổi toàn thể cuộc sống con người (x. Rm 12, 2; Cl 3, 9-10; Ep 4, 20-29; 2 Cr 5, 17).
7. “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta” (2 Cr 5, 14): chính tình yêu Chúa Kitô đổ đầy tâm hồn chúng ta và thúc đẩy chúng ta loan báo Tin Mừng. Ngày nay cũng như xưa kia, Chúa sai chúng ta ra đi trên khắp nẻo đường thế giới để công bố Tin Mừng của Người cho mọi dân tộc trên trái đất (x. Mt 28, 19). Chúa Giêsu Kitô dùng tình yêu thu hút con người thuộc mọi thế hệ đến với Người: trong mọi thời đại, Người gọi Giáo hội đến và trao nhiệm vụ loan báo Tin Mừng, với một mệnh lệnh luôn luôn mới mẻ. Vì thế, ngày nay Giáo hội phải dấn thân một cách thuyết phục hơn nữa qua công cuộc Tân Phúc âm hóa, để tái khám phá niềm vui đức Tin và tìm lại niềm hăng say thông truyền đức Tin. Việc dấn thân truyền giáo của các tín hữu, vốn không bao giờ được thiếu, sẽ nhận được sức mạnh và tinh thần hăng hái qua việc hằng ngày nhận ra tình yêu của Thiên Chúa. Thực vậy, đức Tin sẽ tăng trưởng khi biết sống đức Tin với cảm nghiệm về tình yêu đã nhận lãnh, và biết thông truyền đức Tin với cảm nghiệm về ân sủng và niềm vui. Đức Tin làm cho chúng ta trở nên phong phú, bởi đức Tin giúp tâm hồn mở rộng trong hy vọng và đem lại một chứng từ giàu sức sống: đức Tin mở cánh cửa tâm trí của tất cả những ai lắng nghe và đón nhận Lời Chúa mời gọi hãy gắn bó với Lời Chúa để trở thành môn đệ của Người. Thánh Augustinô cho biết, các tín hữu “nhờ tin tưởng mà được củng cố” [12]. Thánh Giám mục thành Hippo đã có lý khi nói như vậy. Như chúng ta biết, cuộc đời của thánh nhân là một cuộc tìm kiếm không ngừng vẻ đẹp của đức Tin cho đến khi tâm hồn ngài tìm được sự an nghỉ trong Thiên Chúa [13]. Trong nhiều tác phẩm của mình, thánh nhân đã giải thích tầm quan trọng của việc tin và chân lý đức Tin. Những tác phẩm ấy đến nay vẫn còn là một di sản phong phú vô song, giúp biết bao người tìm kiếm Thiên Chúa gặp được con đường đúng đắn để đến được “cánh cửa đức Tin”.
Vì vậy, sở dĩ đức Tin được tăng trưởng và vững mạnh là nhờ biết tin tưởng; để đời mình được vững chắc, không có cách nào khác hơn là không ngừng buông mình vào vòng tay của một tình yêu dường như lớn lao thêm mãi, bởi tình yêu ấy phát xuất từ Thiên Chúa.
8. Nhân dịp vui mừng này, tôi muốn mời gọi anh em Giám mục trên toàn thế giới hãy hiệp nhất với Người Kế Vị Thánh Phêrô, trong thời điểm ân phúc thiêng liêng Chúa dành cho chúng ta, để nhớ lại hồng ân đức Tin quý giá. Chúng ta mong được cử hành Năm Đức Tin này một cách xứng đáng và sinh ơn ích. Cần tăng cường suy tư về đức Tin để giúp tất cả những ai tin vào Chúa Kitô được ý thức hơn và củng cố lòng gắn bó với Tin Mừng, nhất là vào lúc nhân loại đang sống giữa những đổi thay sâu sắc như hiện nay. Chúng ta sẽ có cơ hội tuyên xưng đức Tin nơi Chúa Phục Sinh trong các nhà thờ chính tòa và các nhà thờ trên khắp thế giới; trong các gia đình, để mỗi người cảm thấy sự đòi hỏi cấp thiết phải hiểu biết hơn nữa về đức Tin và truyền lại đức Tin ấy cho các thế hệ mai sau. Các cộng đoàn dòng tu cũng như các giáo xứ, và toàn thể những tổ chức trong Giáo hội, dù lâu đời hay mới lập, hãy tìm ra cách thức công bố Kinh Tin Kính trong Năm Đức Tin này.
9. Chúng ta mong ước Năm Đức Tin sẽ khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát vọng tuyên xưng đức Tin trong sự toàn vẹn và với một niềm xác tín được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng. Năm này sẽ là một cơ hội thuận lợi để tăng cường việc cử hành đức Tin trong phụng vụ, nhất là trong phép Thánh Thể, vốn là “chóp đỉnh mà hoạt động của Giáo hội hướng tới, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào sức mạnh của Giáo hội” [14]. Đồng thời, chúng ta ước mong việc làm chứng bằng đời sống của các tín hữu sẽ tăng tiến trong sự khả tín. Tái khám phá nội dung đức Tin được tuyên xưng, được cử hành, được thể hiện qua đời sống và cầu nguyện [15], và suy tư về chính việc làm của lòng tin, đó là nhiệm vụ mỗi tín hữu phải thực hiện, nhất là trong Năm Đức Tin này.
Không phải là không có lý do mà trong những thế kỷ đầu tiên, các Kitô hữu phải học thuộc lòng kinh Tin kính. Các tín hữu dùng kinh này cầu nguyện hằng ngày, để không quên lời cam kết khi chịu phép Rửa tội. Với những lời mang ý nghĩa súc tích, thánh Augustinô nhắc nhở điều đó trong Bài giảng về redditio symboli, trao Tín biểu (Kinh Tin kính): “Tín biểu về mầu nhiệm thánh (Kinh Tin kính) mà tất cả anh chị em cùng nhau lãnh nhận và từng người trong anh chị em hôm nay đọc lên, là những lời diễn tả đức Tin của Mẹ Giáo hội, được xây dựng vững chắc trên nền tảng vững bền là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta... Anh chị em đã lãnh nhận và tuyên đọc Tín biểu này, vậy, phải lưu giữ Tín biểu nơi lòng trí anh chị em, phải lặp lại Tín biểu khi lên giường ngủ, phải suy ngẫm Tín biểu khi ra nơi công cộng, không được quên Tín biểu khi ăn uống, ngay cả khi thân xác đã ngủ yên, thì trái tim vẫn tỉnh thức với Tín biểu này” [16].
10. Đến đây, tôi muốn phác một lộ trình giúp hiểu sâu thêm những nội dung đức Tin, không những vậy mà với những nội dung đó, còn là việc làm, qua đó, chúng ta quyết định hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa với tất cả tự do. Thực vậy, có sự thống nhất sâu xa giữa hành vi thể hiện đức Tin và những nội dung chúng ta tán đồng. Thánh Phaolô Tông đồ giúp đi vào bên trong thực tại này khi ngài viết: “Có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ” (Rm 10,10). Con tim mách bảo chúng ta rằng chúng ta có được đức Tin vì trước hết đó là quà tặng của Thiên Chúa, và ân sủng Chúa tác động và biến đổi tận nơi sâu thẳm trong con người.
Câu chuyện bà Lidia là một dẫn chứng đầy sức thuyết phục về vấn đề này. Thánh Luca thuật lại, khi Thánh Phaolô đến thành Philipphê, ngày thứ Bảy ngài đi rao giảng Tin Mừng cho vài phụ nữ; trong số họ có bà Lidia và “Chúa mở lòng cho bà để bà chú ý những lời Phaolô nói” (Cv 16, 14). Một diễn đạt mang ý nghĩa quan trọng. Thánh Luca dạy, việc hiểu biết những nội dung để tin thì không đủ, nếu cõi lòng, cung thánh đích thực của con người, không được ơn Chúa mở cho, nhờ đó mới có được đôi mắt để nhìn sâu xa và hiểu ra điều được loan báo chính là Lời Chúa.
Tiếp đến, việc tuyên xưng ngoài miệng cho thấy đức Tin gồm cả việc làm chứng và dấn thân công khai. Người Kitô hữu không bao giờ được nghĩ rằng tin là chuyện riêng tư. Tin, là quyết định ở lại với Chúa để sống với Người. Một khi “ở lại với Chúa”, ta sẽ hiểu được tại sao ta tin. Chính vì đức Tin là một hành vi tự do, nên cũng đòi phải có trách nhiệm xã hội về những điều đã tin. Giáo hội, trong ngày lễ Hiện xuống, rõ ràng đã cho thấy chiều kích công khai ấy của việc tin tưởng và loan báo không chút sợ hãi về niềm tin của mình cho mọi người. Chính ơn Chúa Thánh Thần giúp chúng ta đảm đương sứ mạng, thêm sức để chúng ta làm chứng một cách trung thực và can đảm.
Tự bản thân việc tuyên xưng đức Tin là một hành vi cá nhân, đồng thời cũng mang tính cộng đoàn. Thực vậy, chính Giáo hội là chủ thể đầu tiên của đức Tin. Trong đức Tin của cộng đoàn Kitô hữu, mỗi người lãnh nhận bí tích Rửa tội, là dấu chỉ có hiệu lực về sự gia nhập đoàn dân tín hữu để được ơn cứu độ. Như Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo minh chứng: Nói “Tôi tin” là nói lên đức Tin của Giáo hội được cá nhân mỗi tín hữu tuyên xưng, cụ thể là khi chịu phép Rửa tội. Còn nói “Chúng tôi tin” là nói lên đức Tin của Giáo hội được các Giám mục tuyên xưng khi nghị hội Công đồng, hoặc khái quát hơn, được cộng đoàn tín hữu cử hành phụng vụ tuyên xưng. Tuyên xưng “Tôi tin” cũng chính là Giáo hội, Mẹ của chúng ta, đáp lại Thiên Chúa bằng đức Tin của mình và dạy chúng ta nói lên “Tôi tin” và “Chúng tôi tin” [17].
Chúng ta đã rõ, để chính bản thân chấp nhận đức Tin, nghĩa là hoàn toàn đồng tâm nhất trí với tất cả những gì Giáo hội đề nghị chúng ta tin, cần phải hiểu rõ những nội dung đức Tin. Sự hiểu biết về đức Tin dẫn vào toàn bộ mầu nhiệm cứu độ được Thiên Chúa mặc khải. Vì vậy việc chấp nhận đức Tin có nghĩa là, khi đã tin, chúng ta hoàn toàn tự do chấp nhận trọn vẹn mầu nhiệm đức Tin, bởi chính Chúa là Đấng bảo đảm cho mọi điều chúng ta tin. Người đã mặc khải chính mình và cho phép chúng ta được nhận biết mầu nhiệm tình yêu của Người [18].
Mặt khác, chúng ta không thể quên, trong bối cảnh văn hóa của chúng ta, có nhiều người, tuy không nhìn nhận mình có ơn đức Tin, nhưng vẫn chân thành tìm kiếm ý nghĩa tối hậu và sự thật cuối cùng về hiện hữu của mình và về thế giới. Việc tìm kiếm này thực là một “tiền đề” của đức Tin, vì nó thúc đẩy con người bước vào cuộc hành trình dẫn đến mầu nhiệm Thiên Chúa. Quả thật, bản thân lý trí con người vốn đòi hỏi về “điều có giá trị vững bền và trường cửu” [19]. Đòi hỏi này là một lời mời gọi mãi mãi, được ghi khắc không thể xóa nhòa trong tâm hồn con người, để bắt đầu một cuộc hành trình tìm gặp Đấng mà chúng ta sẽ không tìm kiếm nếu Người đã không đến gặp chúng ta [20]. Chính đức Tin mời chúng ta đến gặp Người và mở cho chúng ta bước vào cuộc gặp gỡ ấy một cách trọn vẹn.
11. Để hiểu biết một cách có hệ thống về nội dung đức Tin, mọi người đều có thể tìm thấy sự trợ giúp quý báu và không thể thiếu trong Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo. Đó là một trong những thành quả quan trọng nhất của Công đồng chung Vatican II. Trong Tông hiến Fidei depositum (Kho tàng đức Tin), không phải ngẫu nhiên được ký vào ngày kỷ niệm 30 năm khai mạc Công đồng chung Vatican II, Đức Chân phước Gioan Phaolô II đã viết: “Sách Giáo lý này sẽ mang lại một đóng góp quan trọng cho công cuộc canh tân toàn thể đời sống Giáo hội… Tôi nhìn nhận Sách này như một dụng cụ giá trị và hợp pháp phục vụ sự hiệp thông trong Giáo hội và như một chuẩn mực chắc chắn để giảng dạy đức Tin” [21].
Theo đó, Năm Đức Tin phải thể hiện quyết tâm tái khám phá và học hỏi nội dung cơ bản của đức Tin được trình bày trong Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo với sự tổng hợp có hệ thống và gắn bó hữu cơ. Quả thật, ở đây chúng ta thấy sự phong phú của giáo huấn mà Giáo hội đã đón nhận, gìn giữ và giới thiệu trong hai ngàn năm lịch sử của mình. Từ Kinh Thánh tới các Giáo phụ, từ các bậc Thầy về thần học cho đến các Thánh qua các thế kỷ, sách Giáo lý là bản ghi nhớ vĩnh viễn về biết bao cách thức Giáo hội suy ngẫm về đức Tin và tạo sự tiến triển trong giáo thuyết, nhằm giúp các tín hữu được vững vàng trong đời sống đức Tin.
Qua cách cấu trúc, Sách Giáo Lý Hội Thánh Công giáo trình bày sự phát triển đức Tin vươn đến tận những đề tài lớn của đời sống hằng ngày. Qua các trang sách, có thể thấy điều được trình bày trong sách Giáo Lý không phải là một lý thuyết, nhưng là một cuộc gặp gỡ với một Người đang sống trong Giáo hội. Quả thật, sau phần Tuyên xưng đức Tin, là phần giải thích đời sống bí tích, trong đó Chúa Kitô hiện diện, hoạt động và tiếp tục xây dựng Giáo hội của Người. Nếu không có phụng vụ và các bí tích thì việc tuyên xưng đức Tin sẽ không hiệu quả, vì thiếu ân sủng nâng đỡ việc làm chứng của các Kitô hữu. Cũng vậy, giáo huấn của sách Giáo Lý về đời sống luân lý đạt trọn vẹn ý nghĩa nếu được đặt trong tương quan với đức Tin, phụng vụ và cầu nguyện.
12. Vì thế, trong Năm Đức Tin, Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo sẽ là một công cụ đích thực nâng đỡ đức Tin, nhất là cho những người quan tâm đến việc huấn luyện các Kitô hữu, một điều rất quan trọng trong bối cảnh văn hóa ngày nay. Với mục đích ấy, tôi đã mời gọi Bộ Giáo lý đức Tin, cùng với các Cơ quan hữu trách khác của Tòa Thánh, soạn một Bản hướng dẫn, đề ra cho Giáo hội và các tín hữu một số chỉ dẫn để sống Năm Đức Tin này một cách hiệu quả và thích hợp hơn, phục vụ cho lòng tin và công cuộc truyền giáo.
Quả thật, nhiều hơn so với trước đây, đức Tin hiện đang phải đối diện với một loạt vấn đề, do não trạng con người đã thay đổi, nhất là ngày nay cho rằng sự chính xác hợp lý thuộc về lĩnh vực chinh phục của khoa học và công nghệ. Tuy nhiên Giáo hội không bao giờ sợ chứng minh rằng không có bất kỳ xung đột nào giữa đức Tin và khoa học chân chính, vì cả hai đều hướng đến chân lý, mặc dù bằng những con đường khác nhau [22].
13. Một điều quan trọng trong Năm Đức Tin là điểm lại lịch sử đức Tin của chúng ta, được ghi dấu bằng mầu nhiệm lạ lùng về sự đan xen giữa thánh thiện và tội lỗi. Lịch sử thánh thiện cho thấy sự đóng góp lớn lao của những người, nam và nữ, cho sự tăng trưởng và phát triển cộng đoàn bằng chứng từ cuộc sống của mình, còn lịch sử tội lỗi thúc đẩy mỗi người phải thành tâm và thường xuyên hoán cải để cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa Cha, Đấng đang đến gặp gỡ mọi người.
Lúc này, chúng ta hãy ngắm nhìn Chúa Giêsu Kitô “là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (Dt 12, 2): nơi Người mọi khổ đau và khát vọng của tâm hồn con người được hoàn tất. Niềm vui yêu thương, câu trả lời trước bi kịch khổ ải và đớn đau, sức mạnh của tha thứ khi bị xúc phạm, và chiến thắng của sự sống trước hư không của sự chết, tất cả đều tìm được sự hoàn tất trong mầu nhiệm Nhập thể, mầu nhiệm Chúa làm người, chia sẻ sự yếu đuối của chúng ta để biến đổi nó bằng quyền năng sự phục sinh của Người. Nơi Đấng đã chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta, đã ngời sáng lên biết bao tấm gương đức Tin, in dấu trong suốt hai ngàn năm lịch sử cứu độ của chúng ta.
Nhờ lòng tin, Đức Maria đã đón nhận lời Thiên thần, và trong tinh thần vâng phục, Mẹ đã tin vào lời loan báo Mẹ sẽ trở thành Mẹ của Thiên Chúa (Lc 1, 38). Khi đến thăm bà Isave, Mẹ cất bài ca chúc tụng Đấng Tối Cao vì những kỳ công Người thực hiện nơi tất cả những ai đã đặt niềm tin nơi Người (x. Lc 1, 46-55). Mẹ sinh hạ người Con duy nhất trong vui mừng và lo âu, mà giờ đây Mẹ vẫn còn nguyên vẹn đồng trinh (x. Lc 2, 6-7). Tín nhiệm nơi Thánh Giuse, hôn phu của Mẹ, Mẹ mang Chúa Giêsu sang Ai Cập để cứu con khỏi cuộc bách hại của Hêrôđê (x. Mt 2, 13-15). Với đức Tin, Mẹ theo Chúa lúc Người đi rao giảng và ở với Chúa cho đến tận đồi Golgotha (x. Ga 19, 25-27). Với đức Tin, Mẹ Maria đã hưởng nếm những hoa trái của cuộc phục sinh của Chúa Giêsu, và gìn giữ từng kỷ niệm trong lòng (x. Lc 2, 19.51), và Mẹ truyền lại những kỷ niệm ấy cho Nhóm Mười hai tụ họp với Mẹ trong Nhà Tiệc ly để nhận lấy Chúa Thánh Thần.
Nhờ đức Tin, các Tông đồ đã từ bỏ mọi sự để theo Thầy (x. Mc 10, 28). Các ngài tin vào lời Chúa loan báo Nước Chúa đã đến và được thực hiện nơi Người (x. Lc 11, 20). Các tông đồ sống đời sống kết hiệp với Chúa Giêsu, Đấng dùng lời giáo huấn mà dạy dỗ các ngài, để lại cho các ngài luật sống mới, qua đó, người ta nhận ra các ngài là môn đệ của Chúa sau khi Người chịu chết (x. Ga 13, 34-35). Nhờ đức Tin, các tông đồ đã đi khắp thế giới, theo lệnh truyền mang Tin Mừng cho mọi thụ tạo (x. Mc 16, 15) và không chút sợ hãi, các tông đồ loan báo cho mọi người niềm vui Phục sinh mà chính các vị đã là những chứng nhân trung thành.
Nhờ đức Tin, các môn đệ hình thành cộng đoàn đầu tiên, quy tụ quanh giáo huấn của các Tông đồ, cùng cầu nguyện, cử hành Thánh Thể, đưa những gì mình có làm của chung để giúp đỡ những anh chị em túng thiếu (x. Cv 2, 42-47).
Nhờ đức Tin, các vị tử đạo hiến mạng sống mình làm chứng cho chân lý Phúc Âm, chân lý đã làm cho họ được biến đổi và đạt tới ơn cao trọng nhất của tình yêu là tha thứ cho những kẻ bách hại mình.
Nhờ đức Tin, những người nam và nữ đã dâng hiến đời mình cho Chúa Kitô, bỏ mọi sự để sống đơn sơ theo tinh thần Phúc Âm, vâng phục, khó nghèo và khiết tịnh, là những dấu chỉ cụ thể của niềm mong chờ Chúa sắp đến. Nhờ đức Tin, đông đảo Kitô hữu đã thúc đẩy những hoạt động bênh vực công lý để cụ thể hóa Lời Chúa, Đấng đã đến loan báo cho mọi người được giải thoát khỏi áp bức và được hưởng một năm hồng ân (x. Lc 4, 18-19).
Nhờ đức Tin, qua các thế kỷ, những người nam người nữ thuộc mọi lứa tuổi được ghi tên trong Sách Sự Sống (x. Kh 7, 9; 13, 8) đã nói lên nét đẹp khi bước theo Chúa Giêsu tại những nơi họ được kêu gọi để làm chứng về cuộc sống làm người Kitô hữu: trong gia đình, nơi làm việc, trong xã hội, khi sống ơn đoàn sủng và thực thi các thừa tác vụ họ đã được kêu gọi.
Nhờ đức Tin, chính chúng ta cũng đang sống: qua việc nhìn nhận một cách sống động Chúa Giêsu đang hiện diện trong cuộc sống chúng ta và trong dòng lịch sử.
14. Năm Đức Tin cũng sẽ là cơ hội tốt để tăng cường làm chứng bằng thực thi bác ái. Thánh Phaolô nhắc nhở: “Hiện nay đức Tin, đức Cậy, đức Mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức Mến” (1 Cr 13,13). Với những lời còn mạnh hơn nữa nhằm thúc giục các Kitô hữu, Thánh Tông đồ Giacôbê khẳng định: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức Tin mà không hành động theo đức Tin, thì nào có ích lợi gì? Đức Tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no’, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức Tin không có việc làm thì quả là đức Tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: ‘Bạn, bạn có đức Tin; còn tôi, tôi có việc làm. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không có việc làm, còn tôi, qua việc làm tôi cho bạn thấy đức Tin của tôi’” (Gc 2,14-18).
Đức Tin không có đức Mến sẽ chẳng mang lại kết quả, còn đức Mến không có đức Tin, sẽ là một tình cảm luôn phó mặc cho ngờ vực. Đức Tin và đức Mến cần có nhau đến mức nhân đức này giúp cho nhân đức kia thể hiện chính mình. Thực tế có nhiều Kitô hữu hiến đời mình để yêu thương những người cô thế, bị gạt ra ngoài lề, bị loại trừ, coi họ là những người đầu tiên cần phải đến gặp và là những người chủ yếu phải được nâng đỡ, vì nơi họ phản chiếu gương mặt của chính Chúa Kitô. Nhờ đức Tin, chúng ta có thể nhận ra gương mặt Chúa phục sinh nơi những người đang mong được chúng ta yêu thương: “Tất cả những gì các con đã làm cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Thầy đây, tức là các con đã làm cho chính Thầy” (Mt 25, 40): những điều Chúa nói chính là lời cảnh báo không được phép quên, và là một lời mời gọi không ngừng đáp lại tình yêu Chúa đã chăm sóc chúng ta. Chính đức Tin giúp nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu của Chúa thôi thúc chạy đến cứu giúp Chúa mỗi khi Người trở thành người thân cận của chúng ta trên nẻo đường cuộc sống. Được đức Tin nâng đỡ, với niềm hy vọng chúng ta hãy nhìn đến công cuộc dấn thân của chúng ta trong thế giới, trong khi chờ đợi “trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị” (2 Pr 3, 13; x. Kh 21, 1).
15. Vào cuối đời, Thánh Tông đồ Phaolô truyền cho môn đệ Timôthê “hãy nỗ lực đạt được đức Tin” (2 Tm 2, 22), với lòng kiên trì như lúc còn trẻ (x. 2 Tm 3, 15). Chúng ta hãy nghe lời mời gọi này được gửi đến mỗi người chúng ta, để đừng ai biếng nhác trong đời sống đức Tin. Đức Tin là bạn đồng hành suốt đời, đem lại một cái nhìn luôn mới mẻ để nhận ra những kỳ công Chúa đang thực hiện cho chúng ta. Nhằm nắm bắt những dấu chỉ thời đại hiện nay của lịch sử, đức Tin thúc đẩy mỗi người chúng ta trở thành dấu chỉ sống động về sự hiện diện của Đấng Phục sinh trong thế giới. Điều mà thế giới ngày nay đặc biệt cần đến, đó là chứng từ đáng tin cậy của những người được Lời Chúa soi sáng nơi tâm trí, có khả năng khai mở tâm trí của biết bao người đang khao khát Thiên Chúa và sự sống thật, sự sống vô cùng vô tận.
“Ước gì Lời Chúa hoàn tất hành trình của mình và được tôn vinh” (2 Tx 3,1): ước gì Năm Đức Tin này làm cho tương quan của chúng ta với Chúa Kitô vững chắc thêm mãi, vì chỉ trong Người chúng ta mới vững lòng nhìn về tương lai và được bảo đảm về một tình yêu đích thực và lâu bền. Những lời thánh Tông đồ Phêrô chiếu tỏa tia sáng cuối cùng về đức Tin: “Anh em sẽ được hớn hở vui mừng, mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức Tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, - vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giêsu Kitô tỏ hiện, đức Tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự. Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức Tin, là ơn cứu độ con người” (1 Pr 1, 6-9). Các Kitô hữu cảm nghiệm niềm vui và đau khổ. Biết bao vị thánh đã từng trải qua nỗi cô đơn! Biết bao tín hữu, kể cả ngày nay, bị thử thách vì Thiên Chúa vẫn im lặng trong khi họ muốn được nghe lời Người an ủi! Những thử thách của cuộc sống, đang khi giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm Thập giá và dự phần vào đau khổ của Chúa Kitô (x. Cl 1, 24), là khúc dạo đầu cho niềm vui và hy vọng mà đức Tin dẫn đến: “Khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ” (2 Cr 12, 10). Chúng ta vững vàng tin tưởng mạnh mẽ Chúa Giêsu đã chiến thắng cái ác và sự chết. Với niềm tín thác, chúng ta trao phó bản thân cho Chúa: Chúa hiện diện giữa chúng ta và chiến thắng quyền lực của ác thần (x. Lc 11, 20) và Giáo hội, cộng đoàn hữu hình của lòng Chúa thương xót, ở lại trong Chúa như dấu chỉ giao hòa rõ rệt với Chúa Cha.
Chúng ta hãy phó thác thời điểm ân sủng này cho Mẹ Thiên Chúa. Mẹ được tuyên xưng là “Có phúc vì đã tin” (Lc 1, 45).
Ban hành tại Đền thờ Thánh Phêrô, Rôma,
ngày 11 tháng Mười 2011,
năm thứ 7 sứ vụ Giáo hoàng của tôi
Bênêđictô XVI, Giáo hoàng
(Đức Thành chuyển ngữ)
Nguồn WHĐ
–––––––––––––––––––––––––
Chú thích
[1] Bài giảng Thánh lễ Khai mạc sứ vụ Phêrô của Giám mục Rôma (ngày 24 tháng Tư, 2005): AAS 97 (2005), 710, DC 102 (2005) p.547.
[2] x. Bênêđictô XVI, Bài giảng Thánh ltại Terreiro do Paco, Lisbon (ngày 11 tháng Năm 2010): Insegnamenti VI, 1 (2010), 673, DC 107 (2010), tr. 515.
[3] x. Gioan Phaolô II, XD. Apost. Fidei depositum (ngày 11 tháng Mười 1992): AAS 86 (1994), 113-118; DC 90 (1993) tr. 1-3.
[4] x. Phúc trình kết thúc Thượng Hội đồng Giám mục ngoại thường lần thứ hai (ngày 7 tháng Mười Hai 1985), II, B, a, 4 in Enchiridion Vaticanum, vol. 9, n. 1797, DC 83 (1986), tr.39.
[5] Phaolô VI, Tông huấn Petrum et Paulum Apostolos, nhân kỷ niệm 1900 năm cuộc tử đạo của Thánh Phêrô và Thánh Phaolô (ngày 22 tháng Hai 1967): AAS 59 (1967), 196, DC 64 (1967) col. 484-485.
[6] Như trên, 198.
[7] Phaolô VI, Long trọng tuyên xưng Đức Tin, Bài giảng Thánh lễ kỷ niệm 1900 năm cuộc tử đạo của Thánh Phêrô và Phaolô, kết thúc Năm Đức Tin (ngày 30 tháng Sáu 1968): AAS 60 (1968), 433 - 445, DC 65 (1968) col. 1249-1258.
[8] Phaolô VI, Tiếp kiến chung (ngày 14 tháng Sáu 1967): Insegnamenti V (1967), 801, DC 64 (1967) col.. 1162.
[9] Gioan Phaolô II, Tông thư Novo Millennio Ineunte (ngày 6 tháng Giêng 2001), n. 57: AAS 93 (2001), 308, DC 98 (2001), tr. 88.
[10] Huấn từ tại Giáo Triều Rôma (ngày 22 tháng Mười Hai 2005): AAS 98 (2006), 52, 103 DC (2006), tr. 63.
[11] Hiến chế về Giáo hội Lumen Gentium, số 8.
[12] De utilitate credendi, 1, 2.
[13] x. Augustinô thành Hippo, Confessions, I, 1.
[14] Hiến chế về Phụng Vụ Sacrosanctum Concilium, số 10.
[15] x. Gioan Phaolô II, Tông hiến Fidei depositum (ngày 11 tháng Mười 1992): AAS 86 (1994), 116, DC 90 (1993), tr. 1-3.
[16] Bài giảng 215, 1.
[17] Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 167.
[18] x. Hiến Chế Tín Lý Dei Filius, Ch. III: DS 3008-3009; Hiến Chế Tín Lý Dei Verbum, số 5.
[19] Bênêđictô XVI, Huấn từ tại Collège des Bernardins, Paris (ngày 12 tháng Chín 2008): AAS 100 (2008), 722, DC 105 (2008), tr. 827.
[20] x. Augustinô thành Hippo, Confessions, XIII, 1.
[21] Gioan Phaolô II, Tông hiến Fidei depositum (ngày 11 tháng Mười 1992): AAS 86 (1994), 115et 117, DC 90 (1993), tr. 1-3.
[22] x. Thông điệp Fides et Ratio (ngày 14 tháng Chín 1998), ss. 34 và 106: AAS 91 (1999), 31-32, 86-87. DC 95 (1998), tr.913 và 938.
© Copyright 2011 - Libreria Editrice Vaticana
 
Tác giả:  Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI (Đức Thành chuyển ngữ, nguồn WHĐ: