Trang chủ

Freitag, Oktober 10, 2014

70 bài Giáo Lý Thánh Mẫu
Nguồn: Vietcatholic
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch 
70 bài Giáo Lý Thánh Mẫu
của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
trong các Buổi Triều Kiến Chung Thứ Tư hằng tuần từ 6/9/1995 tới 12/11/1997
hướng về ngày hiển thánh 27/4/2014 của vị Giáo Hoàng "totus tuus - tất cả của con là của Mẹ"
Mối Liên Hệ giữa Mẹ Maria và Giáo Hội
Bài 57 (30/7/1997)
1- Vai trò trổi vượt của Mẹ Maria trong công cuộc cứu độ mời gọi chúng ta đào sâu về mối liên hệ giữa Mẹ và Giáo Hội.
Theo một số người thì Mẹ Maria không thể được coi là một phần thể của Giáo Hội, vì các đặc ân được ban cho Mẹ, như đặc ân Hoài Thai Vô Nhiễm Tội, vai trò làm Mẹ thần linh và việc hợp tác đặc thù của Mẹ vào công cuộc cứu độ, đã nâng Mẹ lên một thân phận siêu việt đối với cộng đồng tín hữu.
Tuy nhiên, Công Đồng Chung Vaticanô II lại không ngần ngại cho thấy Mẹ Maria như là một phần thể của Giáo Hội, tuy nhiên biệt chú rằng Mẹ "trổi vượt và... hoàn toàn đặc thù - pre-eminent and ... wholly unique" (Lumen gentium, 53): Mẹ Maria là kiểu mẫu (type) của Giáo Hội, là mô phạm (model) và là Mẹ của Giáo Hội. Khác với tất cả mọi tín hữu, vì các tặng ân phi thường Mẹ nhận được từ Chúa, tuy nhiên Đức Trinh Nữ này vẫn thuộc về Giáo Hội và hoàn toàn được gọi là một phần thể.
2- Giáo huấn của Công Đồng này dựa trên một căn bản quan trọng trong Thánh Kinh. Sách Tông Vụ cho thấy Mẹ Maria hiện diện từ ban đầu giữa cộng đồng tiên khởi (1:14), trong khi Mẹ chia sẻ với các môn đệ và một số tín hữu nữ giới niềm mong đợi nguyện cầu Thánh Linh, Đấng sẽ xuống trên các vị.
Sau Hiện Xuống, Đức Trinh Nữ tiếp tục sống trong mối hiệp thông huynh đệ với cộng đồng này và tham gia vào việc cầu nguyện, vào việc lắng nghe giáo huấn của các Tông Đồ, cũng như vào việc "bẻ bánh", tức là vào việc cử hành Thánh Thể (2:42).
Là vị đã sống hiệp nhất chặt chẽ với Chúa Giêsu ở ngôi nhà Nazarét thế nào thì bấy giờ Mẹ sống trong Giáo Hội trong mối hiệp thông mật thiết với Con của Mẹ hiện diện trong Thánh Thể như vậy.
3- Là Mẹ của Người Con duy nhất của Thiên Chúa, Mẹ Maria cũng là Mẹ của cộng đồng làm nên Nhiệm Thể của Chúa Kitô và hướng dẫn những bước đi đầu tiên của cộng đồng này.
Trong việc chấp nhận sứ vụ này, Mẹ dấn thân phấn khích đời sống giáo hội bằng sự hiện diện từ mẫu và gương mẫu của Mẹ. Tình đoàn kết này xuất phát từ việc Mẹ thuộc về cộng đồng của thành phần được cứu chuộc. Thật vậy, không giống như Con của mình, Mẹ cần được cứu chuộc vì "thuộc về giòng dõi Adong, Mẹ cũng liên kết với tất cả những ai được cứu độ" (Lumen gentium - 53). Đặc ân Hoài Thai Vô Nhiễm Tội đã gìn giữ Mẹ khỏi tì vết tội lỗi, nhờ ảnh hưởng cứu độ đặc biệt của Đấng Cứu Chuộc.
Là "một phần thể trổi vượt và hoàn toàn đặc thù của Giáo Hội", Mẹ Maria sử dụng các tặng ân Thiên Chúa ban để chiếm đạt trọn vẹn hơn nữa mối liên kết với thành phần anh chị em của Con Mẹ bấy giờ cũng đã trở thành con cái của Mẹ nữa.
4- Là phần thể của Giáo Hội, Mẹ Maria sử dụng thánh đức bản thân của Mẹ, hoa trái của ơn Chúa và việc Mẹ trung thành hợp tác với ơn Chúa, để phục vụ anh chị em của mẹ. Vị Trinh Nữ Vô Nhiễm này là một sự chống đỡ không ngừng cho tất cả mọi Kitô hữu trong cuộc chiến đấu của họ với tội lỗi và là một phấn khích liên tục để sống như thành phần được Chúa Kitô cứu chuộc, được Thần Linh thánh hóa và là con cái của Chúa Cha.
Là một phần tử của cộng đồng tiên khởi, "Maria, Mẹ của Chúa Giêsu" (Tông Vụ 1:14) được tất cả mọi người kính trọng và tôn kính. Mỗi người đều hiểu được cái trổi vượt của Mẹ là vị đã hạ sinh Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế duy nhất của nhân loại. Hơn thế nữa, đặc tính trinh nguyên nơi vai trò mẫu thân của Mẹ giúp Mẹ có thể chứng tỏ việc đóng góp phi thường cho sự thiện của Giáo Hội là những gì được cống hiến bởi một con người, bằng việc từ bỏ tính chất sinh sản trần gian của mình nhờ sống dễ dạy với Thánh Linh, đã hoàn toàn dấn thân phục vụ vương quốc của Thiên Chúa.
Được kêu gọi chặt chẽ hợp tác vào hy tế Con của mình và vào tặng ân sự sống thần linh cho nhân loại, Mẹ Maria tiếp tục công cuộc từ mẫu của Mẹ sau biến cố Hiện Xuống. Mầu nhiệm yêu thương này được chất chứa nơi Thánh Giá đã tác động nhiệt tình tông đồ của Mẹ và thúc đẩy Mẹ, với tư cách là một phần tử của Giáo Hội, loan truyền Tin Mừng.
Những lời của Chúa Kitô tử giá trên Golgotha: "Này Bà, đó là Con của Bà" (Gioan 19:26), nhờ đó vài trò của Mẹ như người mẹ chung của các tín hữu được công nhận, đã khai mở những chân trời mới mẻ và vô hạn cho vai trò mẫu thân của Mẹ. Tặng ân của Thánh Linh này, được lãnh nhận vào lễ Ngũ Tuần nhờ việc thực hiện sứ vụ ấy, khiến Mẹ cống hiến việc trợ giúp từ tấm lòng từ mẫu của Mẹ đối với tất cả những ai đang hành trình tiến về đích điểm hoàn toàn viên trọn của vương quốc Thiên Chúa.
5- Là một phần thể trổi vượt của Giáo Hội, Mẹ Maria sống một liên hệ đặc thù với các ngôi vị thần linh của Ba Ngôi Chí Thánh: Với Ngôi Cha, Ngôi Con và Thánh Thần. Công Đồng này, khi gọi Mẹ là "Mẹ Con Thiên Chúa", và vì thế là "nữ tử yêu dấu của Chúa Cha và là đền thờ của Thánh Linh" (Lumen gentium - 53), cũng nhắc lại cái tác dụng chình yếu của tình yêu Chúa Cha đó là vai trò mẫu thân thần linh này.
Biết được tặng ân được lãnh nhận ấy, Mẹ Maria mang chia sẻ với các tín hữu những thái độ tuân phục của thân phận con cái cùng với lòng chân thành tri ân, phấn khích mỗi người hãy nhận biết các dấu hiệu của lòng nhân ái thần linh nơi đời sống của mình.
Công Đồng này sử dụng lời diễn tả "đền thờ" (sacrarium) của Thánh Linh, là cố ý nhấn mạnh đến mối liên hệ của sự hiện diện, yêu thương và hợp tác giữa Đức Trinh Nữ và Thánh Linh. Đức Trinh Nữ, vị đã được Thánh Phanxicô Assisi kêu cầu như là "Cô Dâu của Thánh Linh" (Antiphon "Santa Maria Vergine" in: Fonti Francescane, 281), qua gương sáng của mình phấn khích các phần tử khác trong Giáo Hội hãy quảng đại phó mình cho tác động diệu huyền của Đấng An Ủi, và sống với Ngài trong mối hiệp thông yêu thương liên lỉ.
Mẹ Maria là "kiểu mẫu và là mô phạm" của Giáo Hội
Bài 58 - 6/8/1997
 1- Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium của Công Đồng Chung Vaticanô II, sau khi trình bày Mẹ Maria như là "một phần thể ưu việt và hoàn toàn đặc thù của Giáo Hội", đã tuyên bố Mẹ là "kiểu mẫu (type) và là mô phạm (model) tuyệt hạng về đức tin và đức ái" của Giáo Hội (số 53).
Các Nghị Phụ của Công Đồng qui cho Mẹ Maria chức năng "kiểu mẫu", tức là hình ảnh "của Giáo Hội", khi vay mượn từ ngữ của Thánh Ambrôsiô là vị đã diễn tả như thế trong bài chú giải về Biến Cố Truyền Tin: "Phải, Mẹ đã được đính hôn, nhưng Mẹ vẫn là một trinh nữ, vì Mẹ là một thứ kiểu mẫu của Giáo Hội vừa tinh tuyền vừa là một cô dâu: là một trinh nữ, Mẹ đã thụ thai chúng ta bởi Thần Linh; là một trinh nữ, Mẹ đã hạ sinh chúng ta không đớn đau gì" (In Ev. sec. Luc., II, 7, CCL, 14, 33, 102-106). Như thế Mẹ Maria là một thứ kiểu mẫu của Giáo Hội vì thánh đức tinh tuyền của Mẹ, vì đức đồng trinh của Mẹ, về tình trạng đính hôn của Mẹ và vì vai trò thân mẫu của Mẹ.
Thánh Phaolô sử dụng chữ "kiểu mẫu" để cống hiến cho một thực tại thiêng liêng một hình thức khả giác. Thật vậy, ngài thấy nơi cuộc vượt qua Biển Đỏ của Dân Do Thái là một "kiểu mẫu" hay hình ảnh về Phép Rửa Kitô giáo, và thấy nơi manna cũng nh7 nơi nước vọt ra từ tảng đá một "kiểu mẫu" hay hình ảnh về của ăn và của uống Thánh Thể (cf. 1 Cor 10:1-11).
Qua việc định nghĩa Mẹ Maria là một thứ kiểu mẫu của Giáo Hội, Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta hãy nhìn ở nơi Mẹ hình ảnh hữu hình về thực tại thiêng liêng của Giáo Hội, cũng như nơi vai trò mẫu thân tinh tuyền của Mẹ lời loan báo về vai trò mẫu thân trinh trắng của Giáo Hội.
2- Cũng cần phải giải thích thêm là không như các hình ảnh hay kiểu mẫu Cựu Ước chỉ là những gì tiền thân cho các thực tại mai hậu, thì nơi Mẹ Maria thực tại thiêng liêng đã hiện diện một cách ưu việt rồi vậy.
Cuộc vượt qua Biển Đỏ được Sách Xuất Hành diễn tả là một biến cố giải phóng cứu độ, thế nhưng chắc chắn nó không phải là một phép rửa có thể tha tội và ban sự sống mới. Cũng thế, manna, một tặng ân quí báu từ Giavê cho dân của Ngài đang lang thang trong sa mạc, đã chẳng chất chứa gì về tương lai mai hậu của Thánh Thể, của Thân Mình Chúa, hay nước vọt ra từ tảng đá cũng không chưa đựng Máu của Chúa Kitô đã đổ ra cho nhiều người.
Cuộc Xuất Hành là một công cuộc cả thể được Giavê hoàn thành cho dân của Ngài, thế nhưng nó không tạo nên việc cứu chuộc tối hậu thiêng liêng là những gì Chúa Kitô chiếm đạt nơi mầu nhiệm vượt qua.
Hơn nữa, khi đề cập đến các việc thực hành của dân do Thái, Thánh Phaolô nhắc nhở rằng: "Đó chỉ là một thứ bóng mờ về những gì sẽ tới; còn bản chất là những gì thuộc về Chúa Kitô" (Col 2;17). Điều này được âm vang trong Thư gửi Tín Hữu Do Thái, một bức thư, khai triển một cách hệ thống lời dẫn giải này, trình bày việc thờ phượng của Cựu Ước là "một thứ bản sao chép và bóng mờ của cung thánh thiên cung" (Do Thái 8:5).
3- Tuy nhiên, trong việc khẳng định Mẹ Maria là một thứ kiểu mẫu của Giáo Hội, Công Đồng không có ý coi mình như là các hình ảnh hay kiểu mẫu của Cựu Ước, mà khẳng định rằng nơi Giáo Hội thực tại thiêng liêng được loan báo và biểu hiệu hoàn toàn được nên trọn mà thôi.
Thật thế, Đức Trinh Nữ là một thứ kiểu mẫu của Giáo Hội, chứ không phải là một tiền thân bất toàn, mà là những gì trọn vẹn thiêng liêng sẽ được thấy qua những cách thức khác nhau nơi đời sống của Giáo Hội. Ở đây mối liên hệ đặc biệt này hiện diện giữa hình ảnh và thực tại được tiêu biểu là những gì dựa vào dự án thần linh, một dự án thiết định một mối liên hệ chặt chẽ giữa Mẹ Maria và Giáo Hội. Dự án cứu độ ấn định những tiền thân trong Cựu Ước được nên trọn trong Tân Ước cũng ấn định rằng Mẹ Maria sống một cách trọn hảo những gì sau này được nên trọn nơi Giáo Hội.
Sự trọn hảo Thiên Chúa ban cho Mẹ Maria bởi thế chiếm được cái ý nghĩa đích thực nhất của mình nếu nó được giải thích như là một dạo khúc cho sự sống thần linh trong Giáo Hội.
4- Sau khi nói rằng Mẹ Maria là "một kiểu mẫu của Giáo Hội", Công Đồng liền thêm rằng Mẹ là "mô phạm tuyệt hạng" của Giáo Hội, một mẫu gương về sự toàn hảo cần phải được noi theo và bắt chước. Thật vậy, Mẹ Maria là "một mô phạm tuyệt hạng" vì sự trọn hảo của Mẹ vượt trên sự trọn hảo của tất cả mọi phnầ tử khác trong Giáo Hội.
Công Đồng còn thêm cho rõ ràng đó là Mẹ thi hành vai trò này "về đức tin và đức ái". Lưu ý rằng Chúa Kitô là đệ nhất mô phạm, Công Đồng theo đó gợi ý rằng có những chuẩn bị nội tâm thích hợp với mô phạm được hiện thực nơi Mẹ Maria, những chuẩn bị giúp cho Kitô hữu tạo nên một mối liên hệ chân thực với Chúa Kitô. Thật thế, bằng việc nhìn vào Mẹ Maria, tín hữu học biết sống mối hiệp thông sâu xa hơn với Chúa Kitô, gắn bó với Người bằng một đức tin sống động và đặt niềm tin tưởng của mình cùng hy vọng của mình nơi Người, yêu mến Người bằng cả con người của mình.
Những chức năng làm "kiểu mẫu và mô phạm của Giáo Hội này liên hệ đặc biệt đến vai trò mẫu thân trinh nguyên của Mẹ Maria và làm sáng tỏ về vị thế đặc biệt của Mẹ trong công cuộc cứu độ. Cấu trúc căn bản này về con người của Mẹ Maria được phản ảnh nơi vai trò làm mẹ và tính chất trinh nguyên của Giáo Hội.
Dẫn Nhập 
Kể cả hôm nay, chỉ còn đúng 12 tuần nữa hay 12Thứ Bảy nữa là đến ngày 27/4/2014, Chúa Nhật II Phục Sinh Lễ Lòng Thương Xót Chúa, thời điểm Giáo Hội phong hiển thánh cho Nhị Vị Giáo Hoàng: ĐTC Gioan XXIII và ĐTC Gioan Phaolô II. 
Riêng về ĐTC Gioan Phaolô II, vị giáo hoàng "totus tuus" của Lòng Thương Xót Chúa (LTXC), vị giáo hoàng đã qua đời vào thời điểm vừa Thánh Mẫu vừa LTXC (Thứ Bảy Đầu Tháng 2/4/2005, vọng Chúa Nhật Lễ LTXC 3/4/2005), và được phong chân phước cũng vào thời điểm vừa Thánh Mẫu vừa LTXC, 1/5/2011 (Chúa Nhật Lễ LTXC và Đầu Tháng Hoa Mẹ). 
Ngài là vị giáo hoàng duy nhất lấy khẩu hiệu Thánh Mẫu "totus tuus" (hai chữ được tóm gọn từ nguyên một câu ở đoạn 233 trong tác phẩm Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria của Thánh Long Mộng Phố - Louis Montfort), và ở huy hiệu giáo hoàng của ngài cũng có chữ M hoa ở dưới một bên cánh Thánh Giá, ám chỉ Mẹ Maria là "Mẹ Đấng Cứu Chuộc - Redemptor Mater" (nhan đề của bức thông điệp thứ 6 ngài ban hành ngày 25/3/1987). 
Bởi thế, để hướng về biến cố phong thánh cho vị giáo hoàng "totus tuus" của LTXC đặc biệt này, một vị giáo hoàng được cử hành lễ an táng đông đảo chưa từng có trong lịch sử Giáo Hội và loài người, một vị giáo hoàng được phong thánh có lẽ nhanh nhất trong Giáo Hội, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại, từ hôm nay và vào 12 ngày Thứ Bảy hằng tuần còn lại, 13 bài cuối cùng trong loạt 70 bài giáo lý Thánh Mẫu của ngài, 13 bài liên quan giữa Mẹ Maria và Giáo Hội, được ngài chia sẻ vào mỗi buổi triều kiến chung Thứ Tư hằng tuần, từ 6/9/1995 tới 12/11/1997, những chia sẻ và hướng dẫn được ngài hoàn toàn căn cứ vào và dẫn giải theo Chương VIII về Đức Mẹ trong Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen gentium của Công Đồng Chung Vaticanô II. 
Mẹ Maria là Mô Phạm đức tin, đức cậy và đức mến
Bài 61 (3/9/1997)
1- Trong Thư gửi cho Tín Hữu Êphêsô, Thánh Phaolô đã giải thích mối liên hệ phối ngẫu giữa Chúa Kitô và Giáo Hội bằng những lời sau đây: "Chúa Kitô đã yêu thương Giáo Hội và đã hiến mình cho Giáo Hội để Người có thể thánh hóa Giáo Hội, làm cho Giáo Hội nên thanh sạch bằng cách nước rửa của lời, nhờ đó Người có được cho mình một Giáo Hội rạng ngời, không tì vết hay nhăn nheo hoặc bất cứ một sự gì như thế, hầu Giáo Hội trở nên thánh hảo và không dơ nhớp" (5:25-27).
Công Đồng Chung Vaticanô II tiếp nối những khẳng định của Thánh Phaolô và nhắc nhở rằng "Nơi Trinh Nữ Phúc Đức nhất Giáo Hội đã đạt đến sự trọn lành", trong khi "tín hữu vẫn còn phải chiến đấu để chế ngự tội lỗi và tăng trưởng trong thánh đức" (Lumen gentium - 65).
Như thế là cái khác nhau giữa Mẹ Maria và thành phần tín hữu đã dược nhấn mạnh, mặc dù cả hai đều thuộc về Giáo Hội thánh thiện được Chúa Kitô làm cho "không còn tì vết hay nhăn nheo". Thật vậy, trong khi tín hữu lãnh nhận thánh đức nhờ Phép Rửa thì Mẹ Maria được gìn giữ khỏi tất cả mọi tì vết của nguyên tội và được cứu chuộc trước bởi Chúa Kitô. Hơn nữa, mặc dù tín hữu đã được giải thoát "khỏi lề luật của tội lỗi" (cf. Rm 8:2), họ vẫn còn có thể sa theo chước cám dỗ, và tính chất yếu mềm loài người vẫn tiếp tục chi phối đời sống của họ. "Tất cả chúng ta đều vấp phạm nhiều lầm lỗi", Thư Thánh Giacôbê đã nói thế (3:2). Vì lý do ấy mà Công Đồng Chung Triđentinô đã dạy rằng: "Không ai có thể tránh được tất cả mọi tội lỗi, cho dù là tội nhẹ, suốt cả cuộc đời của họ" (DS 1573). Tuy nhiên, nhờ đặc ân thần linh, vị Trinh Nữ Vô Nhiễm là một luật trừ, như chính Công Đồng Triđentinô nhắc nhở (ibid).
2- Bất kể tội lỗi nơi các phần tử của mình, Giáo Hội trước hết và trên hết là cộng đồng của những ai được kêu gọi sống thánh thiện và nỗ lực mội ngày để đạt được nó.
Trên con người khổ nhọc nên trọn lành này, họ cảm thấy được phấn khích bởi Mẹ là "mô phạm của các nhân đức". Công Đồng Chung Vaticanô II nhận định rằng: "Sốt sắng suy gẫm về Mẹ và chiêm ngưỡng Mẹ trong ánh sáng của Lời làm người, Giáo Hội trân trọng thấm nhập sâu xa hơn vào mầu nhiệm Nhập Thể cao cả và càng ngày càng trở nên giống như Vị Hôn Phu của mình hơn" (Lumen gentium - 65).
Bởi vậy mà Giáo Hội nhìn lên Mẹ Maria. Giáo Hội chẳng những chiêm ngưỡng tặng ân kỳ diệu của tình trạng đầy ơn phúc Mẹ được, mà còn nỗ lực noi gương bắt chước sự trọn lành ở nơi Mẹ là hoa trái của việc Mẹ hoàn toàn sống hợp với lệnh truyền của Chúa Kitô: "Thế nên các con phải nên trọn lành như Cha trên trời của các con là Đấng trọn lành" (Mathêu 5:48). Mẹ Maria là vị toàn thánh. Đối với cộng đồng tín hữu Mẹ hiện lên như mẫu thức của sự thánh thiện đích thực đạt được nơi mối hiệp nhất với Chúa Kitô. Đời sống trần gian của Mẹ Thiên Chúa được đánh dấu bằng mối hòa hợp trọn hảo với bản thân Con Mẹ cũng như bởi việc mẹ toàn hiến cho công cuộc cứu chuộc được Người hoàn thành.
Giáo Hội hướng mắt về mối thân tình từ mẫu đã âm thầm gia tăng nơi cuộc sống ở Nazarét và đã tiến đến chỗ toàn hảo ở vào giây phút hy tế, và Giáo Hội nỗ lực noi gương bắt chước mối thân tình từ mẫu này trong cuộc hành trình hằng ngày của mình. Nhờ đó Giáo Hội càng ngày càng trở nên giống như Vị Hôn Phu của mình. Hiệp nhất như Mẹ Maria với Thánh Giá của Đấng Cứu Chuộc, Giáo Hội, giữa các khó khăn, phản khắc và bách hại là những gì tái diễn nơi đời sống của Giáo Hội mầu nhiệm Khổ Nạn của Chúa mình, vẫn liên lỉ tìm cách trọn vẹn trở nên giống Người.
3- Giáo Hội sống bởi đức tin, khi nghiệm thấy ở nơi mình là "kẻ đã tin rằng những gì Chúa nói về mình sẽ nên trọn" (Lk 1:45), bởi việc thể hiện đầu tiên và trọn hảo đức tin của Giáo Hội. Trong cuộc hành trình tin tưởng phó mình cho Chúa này, Vị Trinh Nữ đã đi trước các môn đệ, khi gắn bó với Lời thần linh bằng một cường độ gia tăng bao gồm tất cả mọi đoạn đời sống của Mẹ và tràn sang cho cả chính sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội nữa.
Gương mẫu của Mẹ phấn khích Dân Chúa thực hành đức tin của họ và học hỏi và phát triển nội dung của đức tin, bằng việc giữ trong lòng mình mà suy niệm về các biến cố của ơn cứu độ.
Mẹ cũng trở thành mô phạm của đức cậy cho Giáo Hội nữa. Khi lắng nghe sứ điệp của sứ thần thì vị Trinh Nữ này trước hết hướng niềm hy vọng của mình về vương quốc không cùng mà Chúa Giêsu đã được sai đến để thiết lập.
Mẹ đứng vững gần thập giá của Con Mẹ, đợi chờ lời hứa thần linh được nên trọn. Sau Hiện Xuống, Mẹ của Chúa Giêsu bảo trì niềm hy vọng của Giáo Hội bất chấp mối đe dọa bị bách hại. Bởi thế Mẹ là Mẹ của niềm cậy trông cho cộng đồng tín hữu cũng như cho cá nhân Kitô hữu, và Mẹ phấn khích cùng hướng dẫn con cái của Mẹ khi họ đợi chờ vương quốc của Thiên Chúa, nâng đỡ họ nơi các thử thách hằng ngày và qua các biến cố của lịch sử cho dù thảm thương đến đâu chăng nữa.
Sau hết, Giáo Hội thấy được nơi Mẹ Maria mô phạm về đức mến của Mẹ. Khi nhìn đến trường hợp của cộng đồng Kitô hữu tiên khởi, chúng ta khám phá ra rằng tình trạng đồng tâm nhất trí của họ, những gì được họ tỏ hiện khi đợi chờ biến cố Hiện Xuống, được liên kết với sự hiện diện của Đức Thánh Trinh Nữ (cf Acts 1:14). Và chính vì đức mến rạng ngời của Mẹ Maria mới có thể giữ được tình trạng hòa hợp và tình yêu huynh đệ liên lỉ trong Giáo Hội.
4- Công Đồng tỏ tường đề cao vai trò mẫu gương của mẹ Maria đối với sứ vụ tông đồ của Giáo Hội, bằng nhận định sau đây: "Bởi thế, Giáo Hội, cả trong hoạt động tông đồ của mình, có lý để nhìn lên Mẹ là vị đã hạ sinh Chúa Kitô, Đấng bởi thế được thụ thai bởi Thánh Linh và hạ sinh bởi vị Trinh Nữ, để nhờ Giáo Hội Người có thể được sinh ra và lớn lên trong tâm hồn của tín hữu. Trong đời sống của mình, Vị Trinh Nữ đã trở thành một mô phạm của tình yêu mẫu thân, một mô phạm cần tác động nơi tất cả những ai tham gia sứ vụ tông đồ của Giáo Hội để tái sinh nhân loại" (Lumen gentium - 65). 
Sau khi cộng tác vào công cuộc cứu độ bằng vai trò mẫu thân của mình, việc Mẹ liên hệ với hy tế của Chúa Kitô cùng với việc trợ giúp từ mẫu của Mẹ cho một Giáo Hội mới sinh, Mẹ Maria tiếp tục nâng đỡ cộng đồng Kitô hữu và tất cả mọi tín hữu trong việc quảng đại dấn thân của họ để loan báo Phúc Âm! 
Mẹ Maria là mô phạm cho một Giáo Hội tôn thờ và nguyện cầu
Bài 62 (10/9/1997)
1- Trong Tông Huấn Marialis cultus Người Tôi Tớ Chúa Phaolô VI đáng kính nhớ trình bày Đức Trinh Nữ như là một mô phạm của Giáo Hội tôn thờ. Chủ trương này là một thứ hệ luận thực sự về một sự thật cho thấy Mẹ Maria như là một mẫu mực đối với Dân Chúa trên con đường thánh đức: "Đức Trinh Nữ là một mẫu gương về phương diện này là những gì xuất phát từ sự kiện Mẹ được công nhận như là một mẫu gương tuyệt hảo nhất của Giáo Hội về lãnh vực đức tin, đức mến cũng như về mối hiệp nhất trọn hảo với Chúa Kitô, tức là, về tâm trạng nội tại nhờ đó Giáo Hội, người hôn thê yêu dấu, được liên hệ chặt chẽ với Chúa của mình, có thể kêu cầu Chúa Kitô và nhờ Người mà tôn thờ Cha hằng hữu" (hoản 16).
2- Ở biến cố Truyền Tin, Mẹ là vị đã tỏ ra cho thấy rằng thái độ hoàn toàn sẵn sàng của Mẹ cho dự án thần linh gợi lên cho tất cả mọi tín hữu một mô phạm cao quí về sự chuyên chú tới Lời Chúa và dễ dạy với Lời Chúa.
Khi trả lời cho vị thiên thần rằng: "Xin hãy thực hiện nơi tôi lời của ngài" (Lk 1:38) và khi nói lên việc Mẹ sẵn sàng hoàn tất trọn hảo ý muốn của Chúa, Mẹ Maria xứng đáng thông phần vào phúc đức được Chúa Giêsu công bố: "Phúc cho những ai nghe Lời Chúa mà tuân giữ" (Lk 11:28).
Với thái độ này, một thái độ trải suốt cuộc đời của mình, Đức Trinh Nữ cho thấy một con đường chắc chắn nhất về việc lắng nghe Lời Chúa, một yếu tố thiết yếu của việc tôn thờ, yếu tố đã trở thành kiểu mẫu cho phụng vụ Kitô giáo. Gương mẫu của mẹ cho chúng ta thấy rằng việc tôn thờ không phải chỉ ở chỗ bày tỏ những ý nghĩ và cảm tính của con người, mà là ở chỗ lắng nghe Lời thần linh để hiểu biết lời này, đồng hóa với lời ấy và áp dụng thực hành hằng ngày.
3- Hết mọi cuộc cử hành phụng vụ đều là một thứ tưởng nhớ đến mầu nhiệm của Chúa Kitô nơi việc cứu độ của Người vì toàn thể nhân loại và có mục đích cổ võ việc tham dự riêng tư của tín hữu vào mầu nhiệm vượt qua được tái thể hiện và trở nên hiện thực nơi các cử chỉ và ngôn từ của nghi lễ.
Mẹ Maria là chứng nhân về việc tỏ hiện lịch sử của các biến cố cứu độ, những biến cố đạt tới tột đỉnh của nó nơi cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô, và Mẹ đã lưu giữ "tất cả những sự ấy mà gẫm nghĩ trong lòng" (Lk 2:19). Mẹ không phải chỉ hiện diện ở từng biến cố một, mà là đã tìm cách nắm bắt được cái ý nghĩa sâu xa của những biến cố ấy, gắn bó tất cả tâm hồn của mình với những gì đang được hoàn thành một cách mầu nhiệm nơi chúng.
Bởi thế Mẹ Maria hiện lên như một mô phạm siêu việt của việc tham dự tư riêng vào các mầu nhiệm thần linh. Mẹ hướng dẫn Giáo Hội trong việc suy niệm về mầu nhiệm được cử hành cũng như trong việc tham phần vào biến cố cứu độ ấy, bằng cách phấn khích tín hữu mong ước một mối liên hệ thân mật tư riêng với Chúa Kitô để hợp tác vào việc cứu độ của tất cả mọi người bằng việc ban tặng sự sống của mình.
4- Mẹ Maria cũng trở thành mô phạm của Giáo Hội về cầu nguyện. Hoàn toàn có thể xẩy ra là Mẹ Maria bấy giờ đang ngây ngất nguyện cầu thì thiên thần Gabiên đến nhà của Mẹ ở Nazarét và chào Mẹ. Cảnh trí nguyện cầu này thực sự đã giúp cho Đức Trinh Nữ trong việc Mẹ trả lời cũng như trong việc Mẹ quảng đại thuận ưng chấp nhận mầu nhiệm Nhập Thể.
Ở cảnh tượng Truyền Tin, các họa sĩ hầu như bao giờ cũng vẽ Mẹ Maria đang ở trong tư thế nguyện cầu. Trong số những nhà họa sĩ này chúng ta nhớ đến Fra Angelico. Cảnh tượng này cho Giáo Hội và hết mọi tín hữu thấy được bầu khí cần phải có trong việc tôn thờ.
Chúng ta có thể nói thêm nữa là đối với Dân Chúa thì Mẹ Maria trở thành mô phạm của hết mọi thứ thể hiện nơi đời sống nguyện cầu của họ. Mẹ đặc biệt dạy cho các Kitô hữu cách thức hướng về Thiên Chúa để xin Ngài giúp đỡ và nâng đỡ trong các hoàn cảnh khác nhau trong đời sống.
Việc chuyển cầu từ mẫu của Mẹ ở tiệc cưới Cana và việc Mẹ hiện diện ở Căn Thượng Lầu bên cạnh các Tông Đồ khi các vị cầu nguyện trong niềm trông đợi Hiện Xuống cho thấy rằng việc nguyện cầu thỉnh xin là một hình thức thiết yếu của vấn đề hợp tác hơn nữa vào công cuộc cứu độ trên thế giới này. Bằng việc theo mô phạm của mẹ, Giáo Hội biết trở thành vững vàng trong việc kêu xin của mình, biết kiên trì trong các lời chuyển cầu của mình, nhất là trong việc van nài tặng ân Thánh Linh (cf. Lk 11:13).
5- Đức Trinh Nữ cũng trở thành mô phạm của Giáo Hội về việc quảng đại tham dự vào hy sinh.
Trong việc hiến dâng Chúa Giêsu trong đền thờ và đặc biệt là ở dưới chân Thập Giá, Mẹ Maria hoàn trọn việc hy hiến bản thân mình là việc liên kết Mẹ với nỗi đớn đau và các thử thách của Con Mẹ. Bởi thế, trong cuộc sống hằng ngày cũng như trong việc cử hành Thánh Thể, "Vị Trinh Nữ hiến dâng lễ vật" (Marialis cultus, n. 20) phấn khích Kitô hữu "hãy hiến dâng các hy sinh thiêng liêng đáng Thiên Chúa chấp nhận nhờ Chúa Giêsu Kitô" (1Pt 2:5).
\
Đức Trinh Nữ là Mẹ của Giáo Hội
Bài 63 (17/9/1997)
1- Sau khi tuyên bố Mẹ Maria là "một phần thể ưu việt", là "kiểu mẫu" của Giáo Hội, Công Đồng Chung Vaticanô II viết: "Giáo Hội Công giáo, được Thánh Linh chỉ dạy, tỏ lòng tôn kính Mẹ với lòng cảm mến và sùng kính của con cái như là một người mẹ yêu dấu nhất của mình" (Lumen gentium - 53).
Thật ra bản văn của công đồng ấy không minh nhiên qui về cho Đức Trinh Nữ tước hiệu "Mẹ của Giáo Hội", thế nhưng văn kiện này cũng bày tỏ một cách không sai lầm nội dung của nó khi lập lại một câu nói năm 1748, hơn 2 thế kỷ trước, của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV (Bullarium Romanum, series 2, t. 2, n. 61, p. 428).
Trong văn kiện này vị Tiền Nhiệm khả kính của tôi, khi diễn tả những cảm tình con cái của một Giáo Hội công nhận Mẹ Maria là người mẹ yêu dấu nhất của mình, đã gián tiếp công bố Mẹ là Mẹ của Giáo Hội.
2- Tước hiệu này hiếm được sử dụng trong quá khứ, thế nhưng gần đây đã trở thành thông dụng hơn trong các văn thứ chính thức của Huấn Quyền Giáo Hội cũng như nơi việc tôn sùng của dân Kitô giáo. Thành phần tín hữu trước hết đã kêu cầu Mẹ Maria với tước hiệu "Mẹ Thiên Chúa", "Mẹ của tín hữu" hay "Mẹ của chúng ta", để nhấn mạnh đến mối liên hệ riêng tư của Mẹ với từng người con của Mẹ.
Sau này, vì việc chú trọng hơn nữa đối với mầu nhiệm của Giáo Hội cũng như với mối liên hệ của Mẹ Maria với Giáo Hội mà Đức Trinh Nữ đã bắt đầu được kêu cầu thường xuyên hơn như là "Mẹ của Giáo Hội".
Trước Công Đồng Chung Vaticanô II, lời diễn tả này được thấy trong Huấn Quyền của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, trong đó đã khẳng định rằng Mẹ Maria "thật sự hoàn toàn là Mẹ của Giáo Hội" (Acta Leonis XIII, 15, 302). Tước hiệu này về sau đã được sử dụng nhiều lần trong giáo huấn của Đức Gioan XXIII và Phaolô VI.
3- Mặc dù tước hiệu "Mẹ của Giáo Hội" chỉ mới được qui cho Mẹ Maria gần đây, nó cũng bày tỏ mối liên hệ mẫu thân của Đức Trinh Nữ với Giáo Hội như được chứng tỏ ở một số bản văn Tân Ước.
Từ lúc Truyền Tin, Mẹ Maria đã được mời gọi cống hiến sự ưng thuận của Mẹ cho việc trị đến của vương quốc thiên sai, một vương quốc sẽ xẩy ra nơi việc hình thành của Giáo Hội.
Ở tiệc cưới Cana, khi Mẹ Maria xin Con thi hành quyền năng thiên sai của Người thì Mẹ đã thực hiện một đóng góp cốt yếu vào việc gieo trồng đức tin nơi cộng đồng môn đệ đầu tiên, và Mẹ đã hợp tác trong việc khai mở vương quốc của Thiên Chúa, một vương quốc có "hạt giống" và "khởi điểm" nơi Giáo Hội (Lumen gentium - 5).
Trên Canvê, Mẹ Maria đã liên kết bản thân Mẹ với hy tế của Con Mẹ và thực hiện việc Mẹ góp phần mẫu thân của mình vào công cuộc cứu độ, một đóng góp mặc hình thức quằn quại lâm bồn, vào việc hạ sinh một tân nhân loại.
Khi ngở lời "Này Bà, đó là con của bà" với mẹ Maria, Đấng Tử Giá đã công bố vài trò mẫu thân của Mẹ không phải chỉ liên quan đến vị Tông Đồ Gioan mà còn cho hết mọi môn đệ. Chính vị Thánh Ký, khi nói rằng Chúa Giêsu cần phải chết "để qui tụ làm một con cái của thiên Chúa bị tản mác" (Jn 11:52), cho thấy việc sinh ra của Giáo Hội như là hoa trái của hy tế cứu chuộc là hy tế được Mẹ Maria liên kết theo tình mẫu tử.
Thánh Ký Luca đề cập đến việc hiện diện của Mẹ Chúa Giêsu nơi cộng đồng tiên khởi ở Gia Liêm (Acts 1:14). Như thế là ngài nhấn mạnh đến vai trò mẫu thân của Mẹ Maria nơi Giáo Hội mới sinh, khi so sánh nó với vai trò của Mẹ nơi cuộc hạ sinh của Đấng Cứu Chuộc. Chiều kích mẫu thân như thể trở thành một yếu tố nồng cốt nơi mối liên hệ của Mẹ Maria với thành phần Dân được cứu chuộc mới.
4- Theo Thánh Kinh, giáo huấn của các vị giáo phụ nhìn nhận vai trò làm mẹ của Mẹ Maria nơi công cuộc của Chúa Kitô và vì thế nơi cả công cuộc của Giáo Hội nữa, mặc dù theo liên hệ không phải bao giờ cũng hiển nhiên.
Theo Thánh Irenaeus thì Mẹ Maria "đã trở nên căn nguyên cứu độ cho toàn thể nhân loại - a cause of salvation for the whole human race" (Haer. 3, 22, 4; PG 7, 959), và cung lòng tinh tuyền của vị Trinh Nữ "tái sinh con người trong Thiên Chúa" (Haer. 4, 33, 11; PG 7, 1080). Điều này được Thánh Ambrôsiô âm vang lại khi ngày nói: "Một Trinh Nữ đã sinh hạ ơn cứu độ thế gian, một Trinh Nữ đã cống hiến sự sống cho tất cả mọi sự" (Ep. 63, 33; PL 16, 1198), cũng được âm vang bởi các vị Giáo Phụ khác khi các vị gọi Mẹ Maria là "Mẹ của ơn cứu độ" (Severian of Gabala, Or. 6 in mundi creationem, 10, PG 54, 4; Faustus of Riez, Max. Bibl. Patrum, VI, 620-621).
Vào thời Trung Cổ, Thánh Anselm đã thưa cùng Mẹ Marai như thế này: "Mẹ là mẹ của sự công chính và của người được công chính, Mẹ của sự hòa giải và của thành phần được hòa giải, mẹ của ơn cứu độ và của thành phần được cứu độ" (Or. 52, 8; PL 158, 957), trong khi có các vị tác giả khác qui cho Mẹ tước hiệu "Mẹ của ân sủng" và "Mẹ của sự sống".
5- Tước hiệu "Mẹ của Giáo Hội" như thế phản ảnh niềm xác tín sâu xa của tín hữu Kitô giáo, thành phần thấy nơi Mẹ Maria chẳng những là Mẹ của con người Chúa Kitô mà còn của tín hữu. Mẹ là vị được nhìn nhận như là mẹ của ơn cứu độ, của sự sống và của ân sủng, mẹ của thành phần được cứu độ và là mẹ của kẻ sống, đáng được công bố là Mẹ của Giáo Hội.
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã muốn chính Công Đồng Chung Vaticanô II tuyên bố Maria là Mẹ của Giáo Hội, tức là Mẹ của toàn thể Dân Chúa, của thành phần tín hữu và các Mục Tử của họ". Ngài đã tự làm điều này trong bài diễn từ của ngài vào lúc kết thúc khóa ba của Công Đồng (21/11/1964), đồng thời ngài cũng yêu cầu là "từ nay trở đi toàn thể dân Kitô giáo phải tôn kính và kêu cầu Đức Trinh Nữ bằng tước hiệu này" (AAS 1964, 37).
Như thế, vị Tiền Nhiệm khả kính của tôi đã minh nhiên nói lên vấn đề tín lý được chất chứa ở Chương VIII của Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân, hy vọng rằng tước hiệu này của Mẹ Maria, tước hiệu Mẹ của Giáo Hội, sẽ có được một chỗ đứng quan trọng hơn bao giờ hết nơi phụng vụ cũng như nơi lòng đạo đức của dân Kitô giáo.  
Mẹ Maria là Mẹ của nhân loại 
Bài 64 (24/9/1997)
1- Mẹ Maria là mẹ của nhân loại trong lãnh vực về ân sủng. Công Đồng Chung Vaticanô II đã đề cao vai trò này của Mẹ Maria, khi liên kết nó với việc hợp tác của Mẹ trong cuộc Cứu Chuộc của Chúa Kitô. "Theo dự án Quan Phòng thần linh, Mẹ là người mẹ từ ái của Đấng Cứu Chuộc thần linh trên trái đất này, và hơn tất cả mọi người, một cách đặc thù, là cộng sự viên quảng đại và là nữ tỳ khiêm hạ của Chúa" Lumen gentium - 61).
Bằng những phát biểu này, Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân muốn nhấn mạnh một cách thích đáng đến sự kiện là Đức Trinh Nữ mật thiết liên kết với cộng cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô, trở nên "hợp tác viên quảng đại", "một cách chuyên biệt".
Như các tác động của bất cứ người mẹ nào, từ tác động tầm thường nhất đến tác động đòi hỏi nhất, Mẹ Maria tự nguyện hợp tác vào công cuộc cứu chuộc nhân loại một cách sâu xa và liên tục hòa hợp với Người Con thần linh của Mẹ.
2- Công Đồng cũng vạch ra rằng việc hợp tác của Mẹ Maria được tác động bởi các nhân đức tuân phục, tin, cậy và mến của Phúc Âm, và được hoàn thành bởi ảnh hưởng của Thánh Linh. Công Đồng cũng nhắc lại rằng tặng ân về vai trò làm mẹ thiêng liêng phổ quát của Mẹ xuất phát chính từ việc hợp tác này, đó là việc hợp tác với Chúa Giêsu trong công cuộc Cứu Chuộc, một công cuộc Cứu Chuộc bao gồm việc tái sinh nhân loại cách thiêng liêng, Mẹ trở nên mẹ của những ai được tái sinh vào sự sống mới.
Khi nói rằng Mẹ Maria là "một người mẹ ở cấp độ ân sủng" (cf. ibid.), Công Đồng muốn nhấn mạnh rằng vai trò mẫu thân thiêng liêng của Mẹ không chỉ áp dụng cho thành phần môn đệ mà thôi, như thể những lời Chúa Giêsu phán trên Đồi Canvê: "Này Bà, đó là con của bà" (Jn 19:26) cần phải hiểu theo nghĩa hẹp. Thật vậy, qua những lời ấy, Đấng Tử Giá đã thiết lập một mối liên hệ thân mật giữa Mẹ Maria và người môn đệ yêu dấu của Người, một hình ảnh tiêu biểu có tầm mức phổ quát, có ý hiến ban Mẹ của Người cho toàn thể nhân loại.
Đàng khác, cái công hiệu phổ quát của hy tế cứu chuộc và việc Mẹ Maria ý thức hợp tác với việc hiến dâng hy tế của Chúa Kitô cũng không giới hạn phạm vị tình yêu từ mẫu của Mẹ.
Sứ vụ phổ quát của Mẹ Maria được thực thi trong môi trường của mối liên hệ đặc thù của mẹ với Giáo Hội. Bằng việc Mẹ quan tâm đối với hết mọi Kitô hữu, thật sự là với hết mọi con người tạo vật, Mẹ hướng dẫn đức tin của Giáo Hội hướng về việc chấp nhận sâu xa hơn bao giờ hết Lời Chúa, bảo trì niềm hy vọng của Giáo Hội, làm bùng lên đức ái và mối hiệp thông huynh đệ của Giáo Hội, cùng phấn khích tính chất năng động tông đồ của Giáo Hội.
3- Trong cuộc sống trần gian của mình, Mẹ Maria đã chứng tỏ vai trò làm mẹ thiêng liêng của mình cho Giáo Hội một thời gian rất ngắn. Tuy nhiên, giá trị trọn vẹn về vai trò của Mẹ đã được tỏ ra sau khi Mông Triệu và được nhắm đến chỗ kéo dài qua các thế kỷ cho tới tận thế. Công Đồng đã minh nhiên nói rằng: "Vai trò làm mẹ này của Mẹ Maria trong trật tự ân sủng tiếp tục không ngừng từ khi Mẹ tỏ ra ưng thuận trong biến cố Truyền Tin và là việc ưng thuận được Mẹ kiên quyết bảo trì dưới chân Thập Giá, cho đến lúc viên trọn muôn đời tất cả thành phần được tuyển chọn" (Lumen gentium - 62).
Vì tiến vào vương quốc vĩnh hằng của Chúa Cha, gần hơn với Người Con thần linh của mình và vì thế cũng gần hơn với chúng ta, Mẹ có thể thi hành một cách hiệu nghiệm hơn trong Thần linh vai trò chuyển cầu từ mẫu được Đấng Quan Phòng thần linh ký thác cho Mẹ.
4- Cha trên trời muốn đặt Mẹ Maria gần với Chúa Kitô và hiệp thông với Người là Đấng có thể "cứu độ những ai đến gần với Thiên Chúa qua Người, vì Người bao giờ cũng sống là để chuyển cầu cho họ" (Heb 7:25): Người muốn liên kết việc chuyển cầu của Đấng Cứu Chuộc với tư cách là vị tư tế với việc chuyển cầu của Đức Trinh Nữ với tư cách là một người mẹ. Nó là một vai trò Mẹ thi hành vì những ai đang gặp nguy biến và những ai cần ân huệ trong đời và nhất là phần rỗi đời đời. "Với đức ái mẫu thân của mình, Mẹ chăm sóc cho những người anh em của Con Mẹ, thành phần vẫn còn hành trình trên trần gian bị bủa vây bởi những gian nguy và khốn khó, cho đến khi họ được dẫn vào nhà vinh phúc của họ. Bởi thế, Đức Trinh Nữ mới được kêu cầu trong Giáo Hội dưới tước hiệu là Đấng Bầu Cử, Đấng Cứu Giúp, Đấng Bảo Trợ và là Đấng Trung Gian" (Lumen gentium - 62).
Những tước hiệu này, được đặt ra bởi đức tin của dân Kitô giáo, là những gì giúp chúng ta hiểu biết hơn bản chất của việc chuyển cầu được Người Mẹ của Chúa thực hiện trong đời sống của Giáo Hội cũng như của từng tín hữu.
5- Tước hiệu "Đấng Bầu Cử" là tước hiệu trở về với Thánh Irenaeus. Về vấn đề nữ nguyên tổ Evà bất tuân phục và Mẹ Maria tuân phục, ngài nói rằng ở vào lúc Truyền Tin "Trinh Nữ Maria đã trở nên Đấng Bảo Trợ" của Evà (Haer. 5, 19, 1; PG 7, 1175-1176). Thật vậy, bằng tiếng "xin vâng" của mình, Mẹ đã bênh vực người mẹ đầu tiên của chúng ta và giải thoát bà khỏi các hậu quả do bởi việc bất tuân phục của bà, trở nên căn nguyên cứu độ cho bà cũng như cho toàn thể nhân loại.
Mẹ Maria thực hiện vài trò là "Đấng Bầu Cử" của Mẹ bằng việc hợp tác cả với Thần Linh Đấng An Ủi cũng như với Đấng trên Thập Giá chuyển cầu cho thành phần sát hại mình (cf Lk 23:34), Đấng đưọc Thánh Ký Gioan gọi là "Vị bầu chữa cùng Cha" (1Jn 2:1). Với tư cách là một người mẹ, Mẹ bênh vực con cái của Mẹ và bảo vệ chúng khỏi tai hại gây ra bởi tội lỗi của họ.
Kitô hữu kêu cầu Mẹ Maria là "Đấng Cứu Giúp", khi nhận biết tình yêu thương từ mẫu của Mẹ là những gì quan tâm tới nhu cầu của con cái mình và sẵn sàng đến cứu trợ họ, nhất là khi phần rỗi đời đời của họ gặp nguy nan.  
Niềm xác tín rằng Mẹ Maria gần gũi với những ai khổ đau hay ở trong tình trạng nguy hiểm trầm trọng đã tác động tìn hữu kêu cầu Mẹ là "Đấng Bảo Trợ". Niềm tin tưởng này thật sự cũng được bày tỏ nơi kinh nguyện Thánh Mẫu cổ nhất ở những lời: "Chúng con chạy đến cùng sự bảo trợ của Mẹ, Ôi Thiên Chúa Thánh Mẫu; xin đừng chê chối lời chúng con kêu xin cho những nhu cầu của chúng con nhưng xin hãy luôn giải cứu chúng con cho khỏi hết mọi gian nguy, Ôi Trinh Nữ hiển vinh phúc đức" (from the Roman Breviary).
Là một Đấng Trung Gian từ mẫu, Mẹ Maria dâng các ước nguyện của chúng ta cùng với các thỉnh nguyện của chúng ta cho Chúa Kitô, và truyền đạt các tặng ân thần linh cho chúng ta, bằng cách liên tục chuyển cầu cho chúng ta.
Mẹ Maria với Tước Hiệu Trung Gian
Bài 65 (1/10/1997)
1- Trong số các tước hiệu được qui cho Mẹ Maria theo lòng sùng kính của Giáo Hội, Chương Tám của Hiến Chế Lumen gentium đã nhắc lại tước hiệu "Trung Gian - Mediatrix". Mặc dù có một số Nghị Phụ của Công Đồng không hoàn toàn đồng ý với việc chọn lựa tước hiệu này (cf. Acta Synodalia III, 8, 163-164), dầu sao nó vẫn được đưa vào Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội như để khẳng định về giá trị của sự thật được nó diễn tả. Vì thế cần phải cẩn thận đừng liên kết nó với bất cứ thần học đặc biệt nào về vấn đề môi giới mà chỉ liệt kê nó trong số các tước hiệu được nhìn nhận khác thôi.
Hơn nữa, bản văn này của Công Đồng đã giải thích ý nghĩa về tước hiệu "Trung Gian" khi viết rằng Mẹ Maria "bằng việc chuyển cầu đa dạng của mình tiếp tục mang đến cho chúng ta các tặng ân cho phần rỗi đời đời" (Lumen gentium - 62).
Như tôi đã nhắc nhở trong Thông Điệp Mẹ Đấng Cứu Chuộc của mình: "Vai trò môi giới của Mẹ Maria được liên hệ mật thiết với vai trò mẫu thân của mẹ. Nó có một tính chất từ mẫu đặc biệt, một đặc tính phân biệt nó khỏi vai trò mối giới của các tạo vật khác" (khoản 38).
Căn cứ vào quan điểm này thì nó là một vai trò có tính cách đặc thù theo thể loại của mình và có một tác dụng chuyên biệt.
2- Về các thứ bất đồng từ một số vị Nghị Phụ liên quan đến chữ "Trung Gian", chính Công Đồng đã cống hiến một câu trả lời khi nói rằng Mẹ Maria là "một người mẹ đối với chúng ta theo cấp độ ân sủng" (Lumen gentium - 61). Chúng ta hãy nhớ rằng vai trò môi giới của Mẹ Maria chính yếu được khẳng định bởi vai trò làm mẹ thần linh của Mẹ. Hơn nữa, việc nhìn nhận vai trò làm trung gian của Mẹ được bao hàm nơi lời diễn tả "Mẹ của chúng ta", một lời diễn tả cho thấy tín lý về vai trò môi giới Thánh Mẫu được nhấn mạnh bởi vai trò làm mẹ của Mẹ. Sau hết, tước hiệu "Mẹ theo cấp độ ân sủng" cho thấy rằng Đức Trinh Nữ hợp tác với Chúa Kitô trong việc tái sinh nhân loại cách thiêng liêng.
3- Vai trò môi giới từ mẫu của Mẹ Maria không làm lu mờ đi vai trò môi giới đặc thù và hoàn hảo của Chúa Kitô. Thật vậy, sau khi gọi Mẹ là là "Đấng Trung Gian", Công Đồng đã cẩn thận giải thích rằng vai trò này của Mẹ Maria "không lấy đi bất cứ một sự gì hay thêm vào bất cứ một điều gì phẩm vị và tác dụng của Chúa Kitô là Đấng Trung Gian duy nhất" (Lumen gentium - 62). Về đề tài này, Công Đồng còn trích câu nói lừng danh trong Thư Thứ Nhất gửi Timothêu: "Vì chỉ có một Thiên Chúa duy nhất và chỉ có một vị trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, đó là con người Giêsu Kitô, Đấng đã hiến mình làm giá chuộc cho tất cả mọi người" (2:5-6).
Ngoài ra, Công Đồng còn nói rằng "phận vụ của Mẹ Maria là mẹ của loài người không cách chi có thể làm lu mờ hay suy giảm vai trò trung gian đặc thù của Chúa Kitô, mà còn tỏ ra quyền năng của nó nữa" (Lumen gentium - 60).
Bởi thế, chẳng những không trở thành một chướng ngại cho việc thực thi vai trò trung gian đặc thù của Chúa Kitô Mẹ Maria còn đề cao tính chất phong phú và hiệu năng của nó nữa. "Ảnh hưởng tốt đẹp của Đức Trinh Nữ trên con người bắt nguồn không phải ở bất cứ nhu cầu nội tâm mà là nơi việc sắp xếp của Thiên Chúa. Nó xuất phát từ sự dồi dào phong phú của công nghiệp Chúa Kitô, dựa vào vai trò trung gian của Người, hoàn toàn lệ thuộc vào vai trò trung gian này và rút lấy tất cả quyền năng của mình từ vai trò trung gian ấy" (Lumen gentium - 60).
4- Giá trị nơi vai trò trung gian của Mẹ Maria xuất phát từ Chúa Kitô và vì thế cái ảnh hưởng tốt đẹp của Đức Trinh Nữ "không ngăn trở bất cứ cách nào đến mối hiệp nhất trực tiếp của tín hữu với Chúa Kitô mà trái lại còn nuôi dưỡng nó nữa" (ibid.)
Chiều hướng nội tại qui về Chúa Kitô của công việc "Trung gian" này đã thúc đẩy Công Đồng huấn dụ rằng tín hữu hãy hướng về Mẹ Maria "nhờ đó, được phấn khích bởi sự trợ giúp từ mẫu họ có thể gắn bó chặt chẽ hơn nữa với Đấng Trung Gian và là Đấng Cứu Chuộc" (Lumen gentium - 62).
Trong việc công bố Chúa Kitô là vị trung gian duy nhất (cf 1Tim 2:5-6), bản văn của Thư Thánh Phaolô gửi Timôthêu loại trừ bất cứ một thứ môi giới tương đương nào, nhưng không loại trừ thứ môi giới phụ thuộc. Thật vậy, trước khi nhấn mạnh đến vai trò môi giới duy nhất chuyên biệt của Chúa Kitô, vị tác giả này đã thôi thúc rằng "những lời nguyện khẩn cầu, những lời chuyển cầu và những lời tạ ơn cần phải thực hiện cho tất cả mọi người" (2:1). Những lời cầu nguyện chẳng phải là một hình thức môi giới hay sao? Thật thế, theo Thánh Phaolô, vai trò môi giới đặc thù của Chúa Kitô là để nhắm đến việc khuyến khích những hình thức môi giới tác vụ phụ thuộc khác. Bằng việc công bố tính chất đặc thù nơi vai trò môi giới của Chúa Kitô, vị Tông Đồ này chỉ có ý loại trừ bất cứ sự môi giới nào có tính cách tự lập hay tranh giành, cùng với các hình thức khác tương hợp với giá trị vô cùng nơi công cuộc của Đấng Cứu Thế.
5- Có thể tham dự vào vai trò môi giới của Chúa kitô ở các phạm vi khác nhau của công việc cứu độ. Sau khi nhấn mạnh rằng "không có một tạo vật nào đã từng được coi ngang hành với Lời Nhập Thể và là Đấng Cứu Chuộc" (khoản 62), Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân đã diễn tả về cách thức các tạo vật khả dĩ thực thi một số hình thức môi giới lệ thuộc vào Chúa Kitô nào đó. Thật vậy, "như vai trò linh mục của Chúa Kitô được chia sẻ qua một số cách thức khác nhau cả bởi các thừa tác viên của Người lẫn tín hữu, và như sự thiện hảo duy nhất của thiên Chúa tỏa rạng qua những cách thức khác nhau nơi tạo vật của Ngài, cũng thế, vai trò môi giới đặc thù của Đấng Cứu Chuộc không loại trừ mà còn làm phát sinh ra việc hợp tác đa diện chỉ là một thứ chia sẻ từ cùng một nguồn mà thôi" (khoản 62).
Ước muốn mang đến những việc tham phần khác nhau vào vai trò môi giới duy nhất của Chúa Kitô cho thấy tình yêu thương rộng lượng của Thiên Chúa là Đấng muốn chia sẻ những gì Ngài có.
6- Thật thế, vai trò môi giới từ mẫu của Mẹ Maria lại chẳng phải là tặng ân của Chúa Cha ban cho loài người hay sao? Đó là lý do tại sao Công Đồng đã kết luận rằng: "Giáo Hội không ngần ngại tuyên xưng vai trò phụ thuộc này của Mẹ Maria, một vai trò Giáo Hội liên lỉ cảm nghiệm và khuyên giục tín hữu hãy thành tâm chú trọng đến" (ibid.)
Mẹ Maria thi hành vai trò từ mẫu của Mẹ một cách liên lỉ lệ thuộc vào vai trò môi giới của Chúa Kitô và từ Người lãnh nhận tất cả những gì Trái Tim Người muốn ban cho nhân loại.
Trong cuộc hành trình trần thế của mình, Giáo Hội "liên tục" cảm nghiệm thấy tác động hiệu năng của "Người Mẹ về lãnh vực ân sủng" của mình.
Mẹ Maria là Đấng luôn được biệt tôn
Bài 66 (15/10/1997)
1- "Đến thời gian viên trọn, Thiên Chúa đã sai Con của Ngài đến, sinh hạ bởi người nữ" (Gal 4:4). Lòng tôn sùng Thánh Mẫu được căn cứ vào quyết định thần linh kỳ diệu này, như Thánh Tông Đồ Phaolô gợi nhắc, khi vĩnh viễn liên kết căn tính loài người của Con Thiên Chúa với một người nữ là Mẹ Maria thành Nazarét.
Mầu nhiệm của vai trò làm mẹ thần linh này và của việc mẹ Maria hợp tác vào công cuộc Cứu Chuộc đã làm cho các tín hữu ở mọi thời đại tràn đầy thái độ chúc tụng ngợi khen, cả đối với Đấng Cứu Thế lẫn với Mẹ là vị đã hạ sinh Người trong thời gian, rồi hợp tác vào Ơn Cứu Chuộc.
Một lý do nữa đối với lòng yêu mến tri ân dành cho Đức Trinh Nữ xuất phát từ vai trò làm mẹ phổ quát của Mẹ. Bằng việc chọn mẹ làm Mẹ của toàn thể nhân loại, Cha trên trời, có thể nói, muốn tỏ cho thấy chiều kích mẫu thân của tính chất dịu dàng thần linh của Ngài và mối quan tâm của Ngài đối với tất cả mọi người ở hết mọi lãnh vực.
Trên Đồi Canvê, bằng những lời: "Này là con của Bà!", "Này là Mẹ của con!" (Jn 19:26-27), Chúa Giêsu đã ban Mẹ Maria trước cho tất cả những ai lãnh nhận Tin Mừng cứu độ, và do đó đã đặt nền tảng cho lòng cảm mến con cái của họ đối với Mẹ. Theo gương Tông Dồ Gioan, tín hữu sẽ kéo dài tình yêu của Chúa Kitô đối với Mẹ của Người bằng lòng tôn sùng của họ, bằng việc chấp nhận Mẹ vào đời sống của họ.
2- Các bản văn Phúc Âm chứng thực việc hiện diện của lòng tôn sùng Thánh Mẫu ngay từ ban đầu của Giáo Hội.
Hai đoạn đầu của Phúc Âm Thánh Luca dường như thuật lại sự chú trọng đặc biệt đến Người Mẹ của Chúa Giêsu nơi các Kitô hữu Do Thái, thành phần đã bày tỏ việc cảm mến của họ đối với Mẹ và thiết tha gìn giữ ký ức của họ về Mẹ.
Hơn nữa, trong các trình thuật về thời thơ ấu chúng ta có thể nhận thấy được những bày tỏ khởi đầu của và những lý do cho lòng sùng kính Thánh Mẫu, được tóm gọn trong những lời than lên của bà Isave: "Em có phúc hơn mọi người nữ... Phúc cho em là người đã tin rằng những gì Chúa nói cùng em sẽ được thực hiện" (Lk 1:42,45).
Những dấu vết của một thứ tôn kính đã được lan truyền trong cộng đồng Kitô giáo tiên khởi được hiện diện nơi ca vịnh Ngợi Khen: "hết mọi thế hệ sẽ khen tôi diễm phúc" (Lk 1:48). Bằng việc đặt những lời này trên môi miệng của Mẹ Maria, các Kitô hữu nhìn nhận sự cao cả đặc thù của Mẹ, một thứ cao cả được được loan truyền cho đến tận thế.
Vả lại, các trình thuật Phúc Âm (cf. Lk 1:24-35; Mt 1:23 and Jn 1:13), những công thức đầu tiên về đức tin và một đoạn của Thánh Ignatio thành Antiokia (cf. Smyrn. 1, 2: SC 10, 155) đã chứng thực về việc đặc biệt ca ngợi của những cộng đồng đầu tiên về đức đồng trinh của Mẹ Maria, những gì liên hệ chặt chẽ với mầu nhiệm Nhập Thể.
Phúc Âm của Thánh Gioan, khi ghi nhận việc hiện diện của mẹ Maria ở đầu và cuối đời sống công khai của Con Mẹ, cho thấy rằng các Kitô hữu tiên khởi đã nhận thức sắc bén về vai trò của Mẹ Maria trong công cuộc Cứu Chuộc, hoàn toàn lệ thuộc một cách yêu thương vào Chúa Kitô.
3- Công Đồng Chung Vaticanô II, khi nhấn mạnh đến tính chất đặc biệt của lòng tôn sùng Thánh Mẫu, đã nói rằng: "Mẹ Maria nhờ ân sủng đã được nâng lên trên tất cả mọi thiên thần và loài người ở một vị thế chỉ sau Con của Mẹ, như là Người Mẹ Thiên Chúa rất thánh, vị đã tham phần vào các mầu nhiệm của Chúa Kitô: Mẹ xứng được tôn kính bằng một lòng tôn sùng đặc biệt trong Giáo Hội" (Lumen gentium - 66).
Thế rồi, khi ám chỉ đến kinh nguyện Thánh Mẫu thế kỷ thứ ba, "Sub tuum praesidium - Chúng con chạy đến cùng sự chở che của Mẹ" - Công Đồng nói thêm rằng đặc tính này xuất hiện ngay từ ban đầu: "Từ những thời xa xưa nhất Đức Trinh Nữ đã được tôn kính với tước hiệu Mẹ Thiên Chúa là vị chở che bảo vệ mà tín hữu cùng nhau nương náu nơi kinh nguyện trong tất cả mọi thứ hiểm nghèo và nhu cầu của họ" (ibid.)
4- Chủ trương này đã được xác nhận nơi hình tượng cũng như nơi giáo huấn của các vị Giáo Phụ của Giáo Hội từ thế kỷ thứ hai.
Ở Rôma, trong các hầm mộ của Priscilla, có thể thấy được bức họa đầu tiên về Đức Bà và Con Trẻ, trong khi cùng thời gian đó Thánh Justino và Thánh Irênê đã nói về Mẹ Maria như tân Evà, vị sử dụng đức tin và việc tuân phục của mình để bù lại cho thái độ bất tín và bất tuân của người nữ đầu tiên. Theo vị Giám Mục thành Lyon thì nguyên Adong được cứu chuộc trong Chúa Kitô vẫn chưa đủ, mà "Evà thực sự cũng cần phải được phục hồi nơi Maria nữa" (Demonstratio apostolica, 33). Như thế là ngài nhấn mạnh đến tầm quan trọng của nữ giới trong công cuộc cứu độ và đặt nền tảng cho tính chất bất khả phân ly của lòng tôn sùng Thánh Mẫu với lòng tôn sùng đối với Chúa Giêsu, những gì sẽ kéo dài qua các thế kỷ Kitô giáo.
5- Lòng tôn sùng Thánh Mẫu trước hết được bày tỏ nơi việc kêu cầu Mẹ Maria là "Theotókos", một tước hiệu đã được thẩm quyền xác nhận bởi Công Đồng Chung Êphêsô năm 431, sau cuộc khủng hoảng của lạc thuyết Nestorio.
Việc phản ứng của quần chúng này đối với chủ trương mập mờ và nao núng của Nestoriô, nhân vật đã đi quá xa đến độ chối bỏ vai trò làm mẹ thần linh của Mẹ Maria, và việc hân hoan chấp nhận sau quyết định của Công Đồng Êphêsô là những gì khẳng định về lòng tôn sùng Đức Trinh Nữ đã được cắm rễ sâu xa biết bao nơi Kitô hữu. Tuy nhiên, "theo Công Đồng Chung Êphêsô, có một mức tăng trưởng đáng kể nơi lòng sùng kính này của Dân Chúa đối với Mẹ Maria, về việc tôn kính và mến yêu, về việc khẩn cầu và noi gương bắt chước" (Lumen gentium - 66). Nó được thể hiện đặc biệt nơi các ngày lễ về phụng vụ, trong đó ngay từ đầu thế kỷ thứ 5, "ngày của Mẹ Maria Theotókos" chiếm vị trí quan trọng đặc biệt. Nó được cử hành vào ngày 15/8 ở Giêrusalem và sau này trở thành lễ Mẹ Sinh Thì (Dormition) hay lễ Mẹ Mông Triệu (Assumption).
Chịu ảnh hưởng của cuốn "Tiền Phúc Âm của Thánh Giacôbê", các ngày lễ Sinh Nhật Mẹ, Mẹ Hoài Thai và Mẹ Dâng Mình cũng đã được đưa vào, và đã đóng góp đáng kể cho vấn đề nhấn mạnh đến một số khía cạnh quan trọng của mầu nhiệm Mẹ Maria.  
6- Chúng ta có thể nói một cách chắc chắn rằng lòng tôn sùng Thánh Mẫu đã được triển nở một cách liên tục kỳ diệu cho tới thời đại của chúng ta đây, luân chuyển giữa các giai đoạn nở hoa cùng với các giai đoạn khó khăn là những giai đoạn dù sao cũng thường góp phần nuôi dưỡng tính chất canh tân của nó hơn nữa.
Từ Công Đồng Chung Vaticanô II, lòng tôn sùng Thánh Mẫu đường như theo định hướng phát triển một cách hòa hợp với một kiến thức sâu xa hơn về mầu nhiệm của Giáo Hội cũng như trong cuộc đối thoại với các nền văn hóa hiện đại, để càng cắm rễ sâu xa hơn vào đức tin và đời sống của thành phần dân hành hương của Thiên Chúa trên trần gian này.