Trang chủ

Dienstag, September 21, 2010

tro ve tu coi sang

TRỞ VỀ TỪ CÕI SÁNG - ĐƯỢC ÁNH SÁNG ẤP Ủ (EMBRACED BY THE LIGHT)
Lời dịch giả:

Trong thời gian gần đây có rất nhiều sách viết về hiện tượng người chết sống lại" kể chuyện thế giới bên kia (Near Death Experiences) nhưng không cuốn nào gây sôi nổi bằng cuốn "Embraced By The Light" (tạm dịch: Trở về từ cõi sáng) của Betty Eadie.

Xuất bản đầu năm 1992, nó đã trở nên một "Best Seller" với số bản kỷ lục và dẫn đầu những cuốn sách bán chạy nhất Hoa Kỳ. Bắt đầu từ tháng 2. 1994, nó trở nên cuốn sách bán chạy nhất thế giới với 20 ấn bản bằng các thứ tiếng khác nhau. Trong ấn bản đầu tại Âu Châu, nhiều đọc giả đã phải mua giá chợ đen vì nhà xuất bản in không kịp. Tại Nhật Bản những người không muốn chờ đợi, đã xếp hàng để mua trước cửa nhà in, không đợi sách giao đến tiệm nữa...
Tại sao cuốn sách nầy lại bán chạy như vậy? Theo các nhà bình luận thì không những nội dung cuốn nầy phong phú hơn nhiều cuốn sách tương tự mà tác giả, bà Betty Eadie, đã kinh nghiệm được sự chết và kể lại những diễn tiến ở cõi bên kia, mà bà ta gọi là cõi sáng, một cách chi tiết rõ ràng. Sau khi cuốn sách xuất bản, tác giả đã được mời đi diễn thuyết khắp nơi, đâu đâu bà cũng thư hút được một cử tọa đông đảo chưa từng thấy. Nhiều đ ài phát thanh và truyền hình trên thế giới đã có chương trình phỏng vấn tác giả và thảo luận về hiện tượng "người chết sống lại". Đây là một đề tài đang được bàn cãi rất sôi nổi, người tin kẻ ngờ, và có người đã chất vấn tác giả từng chi tiết một nhưng bà Eadie đã giải đáp được hầu hết thắc mắc của mọi người nên số người hâm mộ bà ngày càng nhiều.
Nhận thấy đây là một quyển sách giá trị, một đề tài đáng để cho chúng ta suy gẫm nên chúng tôi đã xin phép tác giả để tóm tắt và lược dịch những đoạn chính. Chúng tôi không chú trọng đến hiện tượng "người chết sống lại" vì đã có nhiều cuốn sách viết về đề tài nầy rồi và cũng không muốn đi vào chi tiết những cảnh giới tác giả đề cập ở cõi bên kia. Trong phần lược dịch nầy, chúng tôi chỉ muốn đề cập đến nội dung của cuốn sách, hay thông điệp cần thiết cho nhân loại, mà tác giả đã nhấn mạnh rằng đó chính là lý do mà bà trở lại cõi trần.
Sau đây là những đoạn chính của cuốn sách trên nói về trường hợp của bà Betty Eadie sau cuộc giải phẩu tại bệnh viện...
-
-
Có lẽ tôi chỉ vừa mới thiếp đi thôi vì đồng hồ vẫn chỉ 9 giờ rưỡi, nhưng không hiểu sao tôi cảm thấy toàn thân bỗng tràn ngập một cảm giác lạ lùng. Linh tính báo cho tôi biết có một chuyện gì sắp xảy ra. Tôi nhìn quanh phòng, cánh cửa vẫn khép hờ, ánh sáng bên ngoài lọt vào một cách yếu ớt, và tự nhiên tôi cảm thấy sợ hãi vì phải ở trong phòng một mình. Tôi cố gắng tự chủ nhưng đầu óc tôi cứ hoang mang về một điều gì không thể diễn tả. Tôi thấy trong người yếu dần. Tôi muốn bấm vào nút chuông cạnh giường để gọi ý tá nhưng không sao nhúc nhích được. Có một âm thanh kỳ lạ như tiếng vo ve ở đâu trổi lên, lúc đầu còn nhỏ nhưng càng ngày càng to. Bỗng nhiên tôi cảm thấy có một mãnh lực kỳ lạ thúc đầy tôi muốn ngồi bật dậy nhưng thể xác tôi tự nhiên lại cứng đơ một cách lạ lùng. Tôi cố sức vùng vẫy nhưng vô hiệu, chân tay tôi không tuân theo mệnh lệnh của tôi nữa. Dường như có một sức mạnh nào đó đang thu hút lấy tôi, tôi nghe như có tiếng ai gọi thầm đâu đây. Bất chợt có một cái gì dội mạnh vào lồng ngực khiến tôi giật mình. Cảm giác nầy không đau đớn nhưng kỳ lạ khiến tôi trong mình bỗng nhẹ hẳn đi như vừa trút được một gánh nặng. Tôi có cảm tưởng như mình vừa được giải thoát được các ràng buộc, thân thể lân lân sảng khoái như bay bổng. Rồi một cái gì đó dội mạnh vào lồng ngực tôi lần nữa khiến tôi thấy mình dường như thoát hẳn ra ngoài. Ra ngoài? Nhưng ra ngoài cái chi đây? Đầu óc tôi hoang mang lạ lùng. Tôi cố gắng cựa mạnh và tự nhiên thấy mình đang lơ lửng trong không gian gần chạm đến trần nhà. Tôi quay đầu nhìn lại và thấy một thân thể đang nằm bất động trên giường. Chỉ một thoáng giây tôi đã ý thức được ngay đó chính là xác tôi. Không hiểu sao tôi không thấy sợ hãi chút nào. Hình như có một sức mạnh nào đó đang che chở tôi, một cảm giác bình yên khiến tôi có thể yên lặng nhìn ngắm cái xác đó mà không hốt hoảng.

Phải rồi. Đó chính là xác của tôi. Nó còn tốt lắm nhưng không còn sử dụng được nữa, thật đáng tiếc vì nó chưa hư hại bao nhiêu, vẫn có thể dùng được vào nhiều việc. Đang lặng ngắm cái xác, tôi bỗng ý thức được một điều thật kỳ diệu. Lần đầu tiên tôi nhìn rõ mình dưới trạng thái của ba chiều đo. Khi trước tôi có thể thấy mình qua hai chiều đo lúc ngắm mình trong gương, nhưng hiện nay cặp mắt của tôi có thể thấy rõ mọi khía cạnh của thể xác, đàng trước, đàng sau, mọi phía một cách đầy đủ, toàn vẹn, từng chi tiết.

Bất chợt tôi thấy hình như mình không còn chịu áp lực của trọng lực nữa. Cớ thể tôi nhẹ nhõm, có thể cử động một cách dễ dàng thoải mái hơn trước. Dù vừa trải qua một cuộc giải phẩu nhưng tôi không thấy đau đớn, khó chịu vì vết thương. Ngay lúc đó tôi biết rằng mình đã thực sự chết rồi, đã rời bỏ thể xác mà người ta mới giải phẫu xong. Thì ra cái xác đó không phải là tôi mà chỉ là một cái vỏ, một cái bóng, một bộ quần áo củ mà tôi đã sử dụng trong nhiều năm nay. Cái xác đó nằm bất động nhưng tôi lại tự do, thoải mái và dĩ nhiên đây là một kinh nghiệm từ trước đến nay tôi không hề nghĩ đến.

Vừa nghĩ đến đó thì bỗng có ba người đàn ông ở đâu xuất hiện. Họ ở đâu đến tôi không biết nhưng chắc chắn không phải từ bên ngoài bước vào vì cửa phòng vẫn còn khép hờ như cũ. Tất cả đều mặc áo thụng màu nâu, quanh hông có cột một sợi dây màu vàng, hai đầu bỏ thõng xuống. Người họ tỏa ra một thứ ánh sáng rất dịu và đến lúc đó tôi mới nhận ra chính mình cũng đang tỏa ra một thứ ánh sáng tương tự. Không hiểu sao tôi không thấy e ngại hay sợ hãi vì sự xuất hiện của những người lạ mặt nầy. Thoạt trông họ chỉ trạc 70 hay 80 tuổi, nhưng tôi biết rằng tuổi thật của họ khác xa với số tuổi mà tôi phỏng đoán. Có lẽ họ đã sống rất lâu rồi, từ những buổi xa xưa lắm! Nhìn cách phục sức, tôi thấy họ giống như các tu sĩ thời cổ. Phải chăng họ xuất hiện dưới hình ảnh đó để biểu lộ một đức tính hay một minh triết lớn lao?

Một người mỉm cười cho tôi biết rằng giữa tôi và họ đã có những liên hệ "từ ngàn xưa". Tôi không hiểu câu nầy có nghĩa gì. Tại sao lại có sự quen biết như vậy được? Ngàn xưa phải là một thời gian rất xa trong dĩ vãng nhưng xa thế nào được cuộc đời chỉ ngắn ngủi có mấy chục năm thôi? Vừa nghĩ đến đó thì tôi thấy ngay một hình ảnh xa xưa hiện ra trước mắt, một cuộc sống khác với đời sống vừa qua của tôi, và bỗng hiểu được sự liên hệ giữa tôi và những người nầy. Phải rồi, chúng tôi đã quen biết nhau từ lâu lắm rồi và đời sống thực sự của tôi vốn không có khởi đầu hay chấm dứt mà chỉ là một diễn tiến kéo dài không ngừng xuyên qua thời gian. Lúc đó tôi mới ý thức rằng những người nầy thực sự là những người bạn chọn lọc của tôi trong cái đời sống lớn lao, kéo dài vô tận đó, và trong kiếp sống vừa qua của tôi, họ đã đóng vai những "thiên thần hộ mạng" cho tôi.

Một người cho biết rằng tôi chết chưa đúng số và lý do họ đến đây là để trấn an tôi. Trấn an? Tôi chợt hiểu được nguyên nhân của cảm giác bình an êm ái khi vừa qua đời lúc nãy, một cảm giác không sợ hãi, không hoảng hốt mà ý thức rõ rệt được các diễn tiến xảy ra. Khi đó tôi mới hiểu ba người nầy thật hết sức lưu tâm đến tôi. Tôi định lên tiếng cảm ơn thì chợt nhớ ra rằng từ nãy đến giờ chúng tôi không hề nói chuyện đến nhau bằng tư tưởng. Đến lúc đó tôi mới ý thức được sự diễn tả bằng lời nói, ngôn ngữ mà tôi vẫn sử dụng, quả thật rất giới hạn so với cái kinh nghiệm mới mẻ về sự truyền thông bằng tư tưởng nầy. Tôi biết có nhiều điều họ muốn chia sẻ với tôi, cũng như tôi muốn nói với họ, nhưng chúng tôi biết rằng lúc nầy còn có những việc khác quan trọng hơn cần phải làm.

Tự nhiên tôi nghĩ đến chồng và các con của tôi. Hiện nay chồng tôi đang làm gì? Mấy đứa con tôi ra sao? Làm sao một người đàn ông không bao giờ trông nom trẻ nít lại có săn sóc một lúc sáu đứa nhỏ đây? Không có tôi thì làm sao những đứa bé nghịch ngợm nầy có thể thuận hòa với nhau được? Không chừng chúng đã bầy đồ chơi bừa ra khắp nhà rồi. Tôi phải gặp chúng ngay thì mới yên tâm được.

Tôi nhìn ra cửa sổ. Có lẽ tôi phải đi ra ngoài bằng cửa sổ, nhưng vừa nghĩ đến đó thì tôi đã thấy mình đi xuyên qua cửa sổ rồi. Tự nhiên tôi hiểu rằng tôi có thể đi xuyên qua mọi vật một cách dễ dàng và tôi có thể đi bất cứ đâu mà tôi muốn. Tuy nhiên tôi không có thì giờ suy nghĩ nhiều về cái kinh nghiệm mới mẻ nầy, tôi chỉ nghĩ đến gia đình của mình. Sao bao năm làm lụng vất vả để gây dựng một mái ấm gia đình, tự nhiên tôi cảm thấy sợ hãi khi có thể mất đi một cái mà tôi vừa có, cái hạnh phúc mà tôi đã nhọc sức bao lâu nay để vun vén, săn sóc, tạo dựng nên. Vừa nghĩ đến nhà thì tôi đã thấy mình đứng trước cửa nhà. Tôi vội vã bước vào phòng khách và thấy chồng tôi đang ngồi đọc báo trên chiếc ghế bành quen thuộc, lũ nhỏ đang đ ùa nghịch chạy lên chạy xuống cầu thang, la hét ầm ĩ. Quả thật hết chỗ nói! Tôi thường dặn chúng không được chạy nhảy như vậy kia mà. Mẹ vừa vắng nhà một ngày mà lũ nhỏ đã tác oai tác quái rồi. Tôi chăm chú quan sát từng đứa một, và tự hỏi chúng sẽ ra sao khi thiếu người mẹ vẫn thường chăm sóc cho chúng? Không hiểu vì một lý do nào đó, tôi đồng thời ý thức được cuộc đời của mỗi đứa một cách mầu nhiệm. Tôi biết mỗi đứa đều có một nhiệm vụ riêng, một đời sống riêng, và sẽ phải học hỏi để có những kinh nghiệm khác nhau. Thật là một lầm lẫn lớn khi tôi nghĩ rằng chúng là "con của tôi" trong khi thực sự chúng cũng như tôi, đều là những thực thể tâm linh, có cá tính, sự thông minh, hay các nghiệp quả riêng biệt trước khi đầu thai vào cõi sống nầy. Mọi đứa đều có tự do ý chí và sẽ tự chọn một cuộc sống riêng. Chúng có đời sống của chúng cũng như tôi có đời sống của riêng tôi. Chúng được giao phó cho tôi để săn sóc, trông nom và giáo dục trong một thời gian nhất định nào đó thôi, sau đó chúng sẽ đi con đường riêng mà chúng đã chọn. Đây là một chương trình được hoạch định bởi những định luật cao cả, và dĩ nhiên khi chúng ta hoàn tất nhiệm vụ nầy thì đời sống trong kiếp nầy của chúng ta cũng sẽ chấm dứt. Tôi nhìn thấy những thử thách lớn lao và đầy khó khăn mà chúng sẽ phải gặp, nhưng đồng thời cũng biết rằng những việc nầy là điều cần thiết cho sự phát triển của chúng. Tất cả đều chì là những phần rất nhỏ trong một chương trình giáo dục lớn lao, được sắp đặt bởi những quy luật hết sức hoàn hảo.

Tôi thấy mình như trút được gánh nặng rất lớn. Từ trước đến nay tôi thường quá lo lắng cho chúng. Sức tôi thì yếu ớt, vòng tay tôi thì bé nhỏ, làm sao có thể lo liệu chu toàn cho mọi thứ? Thế nhưng tôi đã sắp đặt, hoạch định và mơ ước những điều thật viển vông. Tôi đã thầm mơ rằng những đứa con tôi sẽ trở nên những người có địa vị trong xã hội, những nhà bác học, những y sĩ nổi tiếng, hay thương gia giàu có. Quả thật tôi đã lầm lẫn rất lớn khi nghĩ rằng mình có thể sắp đặt, hoạch định những chương trình to tát như vậy. Nhưng nay thì mọi việc đã giải quyết vì cuối cùng thì cuộc đời của chúng cũng đều tốt đẹp cả. Cuộc sống của gia đình tôi cũng thế, cái hạnh phúc mà tôi hằng lưu tâm trước sau gì cũng sẽ xảy ra trong một tiến trình tất yếu...

Tôi cảm thấy thoải mái và sung sướng khi kinh nghiệm được các điều nầy, có lẽ nhờ thế mà tâm hồn tôi trở nên an tĩnh hơn. Những nỗi lo lắng, sợ hãi dường như tan biến khiến tôi cảm thấy hết sức thoải mái trong đời sống mới mẻ nầy. Tôi trở lại bệnh viện mà không nhớ mình về bằng cách nào. Tôi thấy thể xác mình vẫn nằm yên bất động trên giường, ba người bạn của tôi vẫn đứng đợi cạnh đó. Tôi cảm thấy ngay được tình thương của họ và cả niềm vui nho nhỏ của họ nữa. Hình như họ biết tôi vừa trở về nhà và đã kinh nghiệm được điều mà tôi cần phải biết. Tôi muốn nói với họ nhiều điều nhưng một người cho biết đã đến lúc tôi phải tiếp tục cuộc hành trình và họ sẽ không cùng đi với tôi.

Khi người ta đứng trước một sức mạnh lớn lao hẳn người ta phải biết rõ, giờ đây tôi cũng vậy. Dường như có một cái gì kỳ lạ xảy ra, một sức cuốn hút lớn lao tràn ngặp khắp căn phòng khiến tôi không thể cưỡng lại được. Tôi thấy mình đang bị hút đi bởi một luồng gió lốc cực mạnh nhưng tôi không hề sợ hãi mà lại kinh nghiệm được một sự bình an, thoải mái. Tôi nghe có tiếng chuông thánh thót ở đâu vọng lại, âm thanh hết sức đặc biệt mà tôi không thể quên được. Đột nhiên cảnh vật chung quanh đều mờ dần và tôi đang thấy mình ở trong một đường hầm tối om, đen như mực. Theo lệ thường thì tôi phải sợ hãi lắm, nhưng không hiểu sao nằm trong một màn đêm dầy đặc như vậy mà tôi vẫn cảm thấy một niềm vui rộn ràng, một cảm giác bình an như được che chở. Tôi thấy cũng có những người hay súc vật đang bị lôi cuốn vào cái đường hầm đen tối nầy. Họ ở cách tôi khá xa nhưng có lẽ tất cả đều kinh nghiệm được sự bình an như tôi vì tôi không thấy ai có vẻ sợ hãi hoảng hốt cả. Tất cả đều tiến bước trong đường hầm đen tối đó, nhưng cũng có vài người thơ thẩn không chịu đi mà cứ la cà từ chỗ nầy đến chỗ kia. Tôi không thấy họ làm phiền ai nhưng không hiểu sao họ lại không đi cùng với chúng tôi! Chúng tôi tiếp tục lướt đi với một tốc độ khá nhanh, mặc dù chân không hề bước nhưng mọi vật chung quanh cứ vun vút trôi đi như mây khói.

Được một lúc tôi cảm thấy có một tình thương mãnh liệt ở đâu trút xuống, tràn ngập khắp đường hầm đen tối nầy, một tình thương hết sức thanh tịnh, vô nhiễm, một thứ tình thương không bút mực nào có thể tả xiết. Ngay lúc đó tôi cảm thấy có một đốm sáng khá xa. Không hiểu sao tôi bị thu hút bởi điểm sáng đó nên rảo bước về hướng đó, trong khi những người khác hình như không thấy điểm sáng nên họ vẫn mải miết đi về một hướng khác. Càng đến gần điểm sáng, tôi càng thấy có một tình thương hết sức mãnh liệt từ điểm sáng toát ra và sau cùng tôi nhận thấy đó là một người. Người đó đi đến đâu thì ánh sáng tỏa lan ra đến đó, một thứ ánh sáng chói lọi, sáng hơn cả mặt trời. Tôi thầm nghĩ với ánh sáng nầy thì mắt người chắc chắn không thể chịu nổi, nhưng hiện nay tôi không thể nhìn bằng con mắt thịt nữa mà bằng một thứ nhãn quan khác.

Khi người đó đến gần thì dường như ánh sáng của người đó hòa nhập vào ánh sáng toát ra từ thân tôi như hai ngọn đèn hòa nhập ánh sáng vào làm một. Ngay lúc đó tôi cảm thấy ngây ngất, dường như tôi đang nhập vào người đó và thấy một sức mạnh từ đâu đến tràn ngập khắp thân thể. Đó là một tình thương tuyệt đối, một thứ tình thương vô điều kiện mà chưa bao giờ tôi cảm nhận được. Người đó giơ rộng hai tay ra ôm lấy tôi vào lòng. Ngay lúc đó tôi bỗng òa lên khóc nức nở, và thốt lên "Con đã trở về nhà! Con đã trở về nhà!" Tôi ý thức rõ rằng tôi là một phần của người đó và từ xưa đến nay tôi cũng chưa bao giờ rời xa người đó. Tôi không hề thắc mắc người đó là ai nhưng biết chắc rằng người đó không thể là ai khác hơn Đấng Cứu Thế.

Phải, người đó chính là Thượng Đế, là tình thương, là tất cả, và tôi vẫn biết đến ngài. Từ thuở xa xưa tôi đã biết ngài, trước khi bắt đầu cuộc hành trình xuyên qua thời gian, và dù trải qua nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhiều cõi giới khác nhau, nhưng phần tâm linh của tôi vẫn luôn luôn nhớ đến ngài và không hề rời xa ngài. Suốt đời tôi luôn luôn kính sợ ngài, giờ đây tôi biết rõ ngài chính là người mà tôi tôn quý nhất. Tôi biết ngài hiểu được tất cả những tội lỗi mà tôi đã phạm, những sai lầm mà tôi đã làm, nhưng không hiểu sao tất cả những điều đó giờ đây không quan trọng nữa. Dường như trong cái biển tình thương vô biên đó, tất cả đều tan đi một cách nhanh chóng như bọt nước. Tôi ngước nhìn ngài và cảm thấy ngài muốn chia sẻ tình thương của ngài đối với tôi, và tôi cũng muốn chia sẻ tình thương của tôi đối với ngài. Ngay lúc đó ngài nhìn thằng vào mắt tôi và nói: "Con chết chưa đúng số, chưa đúng ngày giờ". Thật không có lời nói nào lại gây cho tôi một xúc động sâu xa đến thế.

Trước đây tôi không ý thức rõ mục đích của cuộc đời, tôi cứ tìm kiếm một cái gì và không biết điều mình làm có đúng không, nhưng giờ đây chỉ nghe câu nói ấy, tôi biết rõ mình có một sứ mạng nhất định, một mục đích rõ rệt mà khi xưa tôi không hề hay biết. Lúc đó tôi mới ý thức thật rõ ràng cuộc đời trần thế của tôi không phải là một cuộc đời vô nghĩa. Mạng của tôi chưa dứt vì chưa đúng số và chỉ khi nào mục đích và ý nghĩa của cuộc đời đã hoàn tất thì mới đến lúc từ giã cõi trần. Dù biết thế nhưng tôi vẫn phản đối: "Không, con không thể xa ngài được", và tự nhiên tôi hỏi ngài liên tiếp "Ngài là Thượng Đế sao? Là người con vẫn sùng kính cả đời sao? Ngài quả thật khác xa với những điều con nghĩ". Cứ thế tư tưởng của tôi miên man với trăm ngàn câu hỏi. Tôi muốn biết tại sao tôi chết chưa đúng số, tôi muốn hiểu rõ hơn các tín niệm mà trước đã học nhưng vẫn còn thắc mắc thật lạ lùng vì câu hỏi chưa thốt ra tôi đã hiểu ngay câu trả lời. Hình như đứng trong luồng ánh sáng của ngài, luồng sáng của sự hiểu biết, có một mãnh lực tuôn tràn vào trong trí tôi tất cả sự thật. Khi đã có lòng tin, đã để luồng ánh sáng đó tràn vào lòng, thì các câu hỏi đến với tôi thật nhanh chóng và câu trả lời cũng đến cùng một lúc, nhanh không thể tưởng tượng được.

Ngày trước tôi không biết gì về sự chết cả. Các quan niệm sai lầm về sự chết nay đã được giảng giải rõ rệt. Nấm mồ chỉ là nơi chứa đựng thể xác, một bộ quần áo cũ đã hư hỏng, chứ chẳng dính gì đến phần tâm linh cả. Tôi biết ngài là con Thượng Đế, và cũng chính là Thượng Đế. Ngài được chọn làm Đấng Cứu Thế khi trái đất nầy chưa được thành lập. Ngài chính là đấng Tạo Hóa. Tôi hiểu rằng ngài có sứ mạng xuống trần gian để giảng dạy về tình thương. Tôi hiểu các việc nầy một cách rõ ràng và chợt ý thức rằng vì một lý do nào đó dường như đã có một tấm màn che đậy tâm trí tôi lúc mới sinh khiến tôi cứ u mê, sống trong đời mà như người mê ngủ. Các câu hỏi và câu trả lời cứ thế tuôn trào trong trí óc tôi. Nhưng Đấng Cứu Thế đã nói: "Cứ từ từ thôi, con sẽ biết tất cả những điều con muốn biết". Dĩ nhiên tôi muốn biết tất cả mọi chuyện. Đây là một tính xấu của tôi. Khi còn nhỏ tính nầy đã làm cha mẹ tôi bực mình, lúc lập gia đình chồng tôi nhiều lúc đã gắt lên "vừa thôi chứ! Làm sao cái gì em cũng đòi biết hết vậy?" Nhưng hiện nay tôi thấy lòng ham hiểu biết là một ân sủng. Tôi sung sướng vì được tự do học hỏi. Sự lĩnh hội nầy đến một cách nhanh chóng như tôi đang đọc trăm ngàn cuốn sách một lượt. Tôi chỉ nhìn lướt qua cuốn sách là đã có thể biết được mọi chi tiết, trước sau, trong ngoài, tất cả sắc thái và nội dung, ngay lập tức. Hơn thế nữa, khi tôi đã hiểu được một điều thì tất cả những điều liên quan như hiện ra, xen vào đó như những sợi chỉ đan vào nhau giúp tôi hiểu trọn vẹn. Danh từ toàn tri chưa bao giờ lại có ý nghĩa đối với tôi như lúc nầy. Sự hiểu biết thấm nhuần khắp thân tôi. Nó và tôi, và tôi kinh ngạc trước khả năng có thể hiểu biết các định luật vũ trụ một cách tốt đẹp như vậy.

Được bao bọc trong biển sáng chói lọi, các câu hỏi mà tôi thắc mắc từ trước đến nay bỗng dưng được giải đáp trọn vẹn. Khi xưa tôi thường thắc mắc tại sao thế giới nầy lại có nhiều tôn giáo khác nhau, tại sao mỗi tôn giáo lại phân chia thành các giáo phái? Tại sao Thượng Đế không ban cho nhân loại một tôn giáo duy nhất thuần túy mà thôi? Câu trả lời đến với tôi ngay tức khắc: Mỗi con người đều có những mức độ phát triển tâm linh khác biệt, do đó phải có những trình độ hướng dẫn khác nhau. Tất cả mọi tôn giáo trên toàn cầu đều hết sức cần thiết vì nó đáp ứng những nhu cầu khác biệt nầy. Không một tôn giáo nào có thể đáp ứng được tất nhu cầu của mọi con người, ở mọi trình độ. Mỗi tôn giáo là một viên đá lót đường để đưa con người tiếp tục đi xa hơn trên con đường dẫn đến Chân Lý. Dĩ nhiên khi một cá nhân đã phát triển, đã nâng cao trình độ hiểu biết về Thượng Đế thì người đó có thể cảm thấy không thỏa mãn với lời dạy bảo của tôn giáo mà người đó đã từng theo đuổi, học hỏi. Hiển nhiên người sẽ đi tìm một tôn giáo hay triết lý khác để bù đắp vào chỗ thiếu sót đó. Khi điều nầy xảy ra thì người đó có thể đạt đến một trình độ hiểu biết khác về Chân Lý, mỗi bước đường đều có những cơ hội để học hỏi thêm về Chân Lý. Do đó, đã hiểu được điều nầy thì người ta cần biết rằng chúng ta không có quyền chỉ trích bất cứ một tôn giáo nào, vì tôn giáo nào cũng đều quan trọng và đáng quý như nhau. Vì con người không toàn thiện, toàn tri, do đó họ cần học hỏi nhiều. Tùy theo trình độ hiểu biết và khả năng tâm linh mà họ được giao phó các sứ mạng, đặt vào các địa vị, trong các quốc gia hay tôn giáo, các môi trường của đời sống, để có dịp tiếp xúc với những người khác và học hỏi. Đời sống là một môi trường để thử thách, để học hỏi và muốn hiểu biết đích thực ý nghĩa của cuộc sống thì người ta phải biết dẹp bỏ bản ngã, dẹp bỏ cái ý nghĩ rằng chính cá nhân có thể biết tất cả, mà phải khiêm tốn hơn, lắng nghe lời chỉ dẫn thầm lặng của đấng Thiên Liêng.

Nhưng tại sao đang sống trong tình thương tuyệt diệu của Thượng Đế mà có những linh hồn lại tự nguyện đầu thai xuống trần để học hỏi khi họ có thể tìm thấy câu trả lời lại chính nơi đây? Vừa nghĩ đến đó thì tôi chợt kinh nghiệm ngay được sự tạo lập trái đất như sự kiện nầy đang diễn ra trước mắt tôi. Có lẽ đây là một điều quan trọng mà Thượng Đế muốn cho tôi tiếp thu được vì trước mắt tôi cả một diễn tiến của sự tạo lập trái đất với muôn ngàn tia sáng chói lọi...

Được bao bọc trong biển sáng vô biên nầy, tôi ý thức được rằng tất cả mọi người đều là các thực thể tâm linh trước thuở khai thiên lập địa và chính họ đã góp phần vào công việc tạo lập nầy. Chúng ta đích thực là con của Thượng Đế và chính chúng ta đã phụ giúp vào công việc của ngài. Thật là một vinh hạnh lớn lao khi con người đươc góp phần vào công việc cao cả đó. Các tâm linh xuống trần là để phụ giúp việc sắp đặt các điều kiện cõi trần với các định luật của loài người, các định luật thuộc về vật lý, các giới hạn của xác thân và các quyền lực tâm linh. Tất cả mọi sự đều được tạo dựng bằng những chất liệu thiêng liêng trước khi được cấu tạo bằng các năng lực vật chất. Các tinh tú, mặt trời, mặt trăng, các hành tinh, các giải thiên hà cũng như các núi non, sông hồ hay đại dương đều được cấu tạo một cách tương tự. Tôi hiểu rằng sự tạo lập bằng những chất liệu thiêng liêng thì rõ, trong khi phần vật chất chỉ như những âm bản lờ mờ, không rõ. Trái đất chỉ là một cái bóng của sự mỹ lệ, vinh quang mà thôi. Nó phản ánh những sự tuyệt hảo của cõi tâm linh nhưng điều quan trọng là nó phải được khám phá và khám phá ra sự toàn hảo nầy chính là mục đích của đời sống. Đây là căn bản cần thiết của sự phát triển cá nhân khi họ góp phần vào công cuộc chung của đấng tạo Hoá. Thật là khôi hài khi những cá nhân tưởng mình đã phát triển ra điều nầy hay điều nọ. Họ không biết rằng các tư tưởng sáng tạo mà con người có được chỉ là do các phản ứng vô hình phát sinh từ các cõi trên. Những phát minh quan trọng hay những phát triển về kỹ thuật đều phát xuất từ cõi tâm linh. Chính những cá nhân ở cõi đời tiếp nhận được nguồn cảm hứng nầy rồi mới tạo ra các phát minh. Khi biết vậy thì tôi cũng hiểu rằng đã có một mối liên hệ sâu xa và linh động nối cõi tâm linh và cõi trần. Con người cần các rung động sáng tạo của cõi trên để giúp họ tiến bộ.

Từ ngàn xưa, con người đã lựa chọn sứ mạng xuống trần để góp phần vào công việc chung, nhưng khi khoác lấy cái vỏ vật chất, họ thường quên đi mục đích chính của mình. Chỉ khi trải qua các thử thách, các kinh nghiệm, con người mới hiểu rõ họ là ai và sẽ biết sống thuận theo thiên ý... Tất cả những thực thể tâm linh xuống trần đều là những thực thể dũng cảm, dù cho một kẻ kém phát triển ở cõi trần cũng là một thực thể can đảm và dũng cảm ở cõi tâm linh... Con người cần biết rằng các hành động của họ quyết định chiều hướng cuộc đời họ, do đó con người có thể thay đổi hay chuyển hướng cuộc đời họ bất cứ lúc nào. Đây là một điều quan trọng vì Thượng Đế không can thiệp vào cuộc đời của con người trừ khi họ yêu cầu ngài. Qua sự toàn tri, ngài sẽ giúp họ đạt được các mong muốn một cách chính đáng. Nhưng hơn hết, mọi người đều có may mắn là đã được ban cho một khả năng rất quan trọng, đó là tự do ý chí và họ có thể sử dụng quyền lực đó, điều nầy cho phép con người chọn lựa niềm phúc lạc hay nỗi khổ đau, nhưng dù là đau khổ hay hạnh phúc, tất cả đều chỉ là những kinh nghiệm cần thiết để học hỏi, để nhận thức và ý thức được sự mầu nhiệm của các định luật tạo hoá...

Được bao bọc trong biển sáng của đấng Vô Cùng, tôi ý thức rằng con người cần phải biết giúp đỡ nhau, săn sóc nhau, thông cảm nhau và nhất là biết tha thứ cho nhau. Con người sống là để yêu thương vì yêu thương chính là tinh hoa của phần tâm linh hằng có trong mỗi người chúng ta. Hình dáng con người có thể không giống nhau, màu da có thể khác, trình độ học vấn có thể chênh lệch, nhưng đó chỉ là bề ngoài mà phần phán xét nhau được. Nằm sâu trong cái vỏ vật chất khác biệt là phần tâm linh cao cả hay một tình thương vô biên không hề khác biệt. Ai ai cũng có khả năng yêu thương vì yêu thương là một năng lực bất tận, càng cho ra bao nhiêu nó lại càng tràn đầy bấy nhiêu. Dĩ nhiên mọi người đều phát triển dưới một trình độ nào đó chưa đầy đủ trọn vẹn, nhưng không ai có thể đo lường mức phát triển nầy. Chỉ có Thượng Đế mới biết và chỉ có ngài mới có thể phán xét một cách hoàn toàn. Ngài biết rõ phần tâm linh của chúng ta trong khi phần lớn chúng ta chỉ thấy một vài điểm bất toàn bộc lộ ở bên ngoài chứ không thể nhìn vào tận bên trong được.

Một điều tôi biết rất rõ là bất cứ việc gì có tính cách biểu lộ tình thương hay lòng thiện cảm đều là những hành động thuận với thiên ý, vì Thượng Đế chính là tình thương. Một nụ cười, một lời khích lệ, một hy sinh nhỏ nhặt để làm vui lòng người khác cũng làm tăng trường khả năng yêu thương vốn có nơi mọi người. Dĩ nhiên không phải ai chúng ta gặp cũng đều đáng yêu cả, nhưng khi chúng ta thấy một người thật khó thương thì thường là họ nhắc nhở cho chúng ta một cái gì đó ở bên trong chúng ta mà chúng ta không thích. Tôi còn học được rằng, chúng ta phải biết yêu thương cả kẻ thù, phải biết xả hết mọi giận hờn cay đắng cũng như tính cố chấp, không tha thứ. Những điều nầy không những đi ngược với thiên ý mà còn phá hoại phần tâm linh của chúng ta. Con người được đánh giá qua việc con người ta đối xử với kẻ khác ra sao và giá trị của con người được Thượng Đế nhìn qua việc họ đã gieo rắc tình thương của ngài đối với thế gian như thế nào...

Được bao bọc bởi luồng ánh sáng rực rỡ của đấng Sáng Tạo, tôi đã quan sát sự tạo lập vũ trụ, chiêm ngưỡng việc những thực thể tâm linh mang lấy xác thân vật chất để kinh nghiệm sự sáng tạo, chiêm ngưỡng công trình của đấng Sáng Tạo... Tôi đã thấy những người tiên phong khai phá lục địa Mỹ Châu, họ đã trải qua những khó nhọc khi vượt đại dương như thế nào, đã phải chiến đấu và khắc phục các trở ngại ra sao để hoàn tất sứ mạng được giao phó. Tôi biết rằng chỉ có những người cần kinh nghiệm nầy mới được giao phó công việc đó. Tôi còn thấy các đấng thiên thần vui mừng cho những người đã vượt được trở ngại để thành công, và buồn rầu khi thấy có những người không vượt qua được các trở ngại nầy. Dĩ nhiên có người thất bại vì sự yếu kém của chính họ, nhưng cũng có khi là do sự yếu kém của kẻ khác. Nhưng dù thành công hay thất bại, tất cả đều là những kinh nghiệm cần thiết cho sự hiểu biết và phát triển cá nhân...

Được bao bọc trong luồng ánh sáng của ngài, tôi ý thức được rằng tất cả chúng ta đều xuống trần vì sự tự nguyện, và chúng ta luôn luôn nhận được những sự trợ giúp nhiều hơn điều chúng ta biết. Tôi nhìn thấy tình thương biên của Thượng Đế tỏa ra khắp nơi, ban phát cho tất cả các con của ngài. Tôi cũng thấy các thiên thần đứng quanh chúng ta, sẵn sàng trợ giúp và chia vui với chúng ta hoàn tất được công việc giao phó. Tôi thấy rõ ánh sáng chói lọi của đấng Cứu Thế đang ban rải khắp nơi. Toàn thân tôi như tan biến trong vòng tay của ngài. Ngài đã cho tôi thấy tất cả những gì tôi nhìn thấy và giúp tôi hiểu được những gì tôi cần biết.

Các câu hỏi vẫn liên tiếp xảy ra trong trí tôi, và những câu trả lời cũng không ngớt tuôn trào cho đến khi nó bao trùm lên tất cả mọi phương diện về đời sống. Trí óc tôi quay về các định luật cai quản đời sống trái đất như các định luật thiên nhiên. Phần lớn con người chỉ biết đến các định luật nầy một cách qua lo mơ hồ, qua các giả thuyết hay chứng minh khoa học, nhưng đó chỉ là những mảnh vụn rất nhỏ. Các định luật được tạo ra để hoàn thành một mục đích nhất định và chúng bổ khuyết lẫn nhau cho mục đích cao cả chung. Khi con người nhận thức được các định luật nầy, học được cách sử dụng các năng lượng của chúng thì con người sẽ vượt lên sự hiểu biết thông thường để đạt đến được những hiểu biết lớn lao và dần dần sẽ hiểu được các định luật của vũ trụ.

Tất cả mọi vật đều do quyền lực thiêng liêng tạo ra, mọi yếu tố, mọi phần tử đều có sự sống riêng, có phần tinh thần cũng như vật chất và nhờ thế tất cả đều có thể kinh nghiệm được sự sáng tạo. Mọi yếu tố có thể hành động độc lập theo khả năng của nó để đáp ứng với các định luật và mãnh lực chung quanh. Tất cả đều góp phần vào một diễn tiến chung và chính bằng các quyền lực tự nhiên và các định luật sáng tạo mà đấng Hóa Công đã tạo ra trái đất nầy. Do đó, nhờ biết sống đúng với các định luật thiên nhiên, ta sẽ gặp các hậu quả do sự thiếu hiểu biết các định luật nầy. Nếu chúng ta gây ô nhiễm cho môi trường chúng ta sống thì đó là vi phạm các định luật thiên nhiên và luật sinh tồn. Hậu quả có thể mang lại sự ốm đau, bệnh tật hay tử vong. Nếu chúng ta phí phạm xác thân vào các việc như ăn uống quá độ, ngủ nghĩ quá nhiều hoặc sử dụng các dược chất gây kích thích các cơ quan khiến suy nhược thể xác thì chúng ta phải chịu.

Được bao bọc trong luồng ánh sáng của ngài, tôi ý thức được rằng mọi định luật thiên nhiên đều được đặt ra vào những mục đích nhất định. Tất cả các thực thể tâm linh được tạo ra để kinh nghiệm sự sáng tạo và tùy theo khả năng độc lập riêng mà chúng đáp ứng với các định luật nầy một cách khác nhau. Mỗi tâm linh đều có chủ quyền đối với phần tử vật chất của nó và đây là một điểm hết sức quan trọng. Vì mọi vật đều được cấu tạo bằng những chất liệu thiêng liêng trước khi khoát lấy cái vỏ bằng vật chất nên phần tâm linh bên trong mới thực sự là chính. Nó có bổn phận kiểm soát, sai khiến cái vỏ vật chất bên ngoài. Sự sa đọa chẳng qua là việc thiếu ý thức, quên mất cái nguồn gốc thiêng liêng, sống hời hợt, tuân theo dục vọng của cái vỏ vật chất. Đáng lẽ ra mọi hành động hay phản ứng của cái vỏ nầy phải là sự thể hiện hay phản ảnh của yếu tố tâm linh, vốn cấu tạo bằng chất liệu từ đấng Sáng Tạo vì "con người được tạo ra qua hình ảnh của đấng Sáng Tạo" nhưng đa số đã không hiểu rõ việc nầy. Tuy nhiên ảnh hưởng của cái vỏ vật chất tầm thường kia không thể xâm lấn hay ảnh hưởng gì đến phần tâm linh được. Đối với người thiếu ý thức, không có lòng tin thì phần tâm linh sẽ tạm thời tiềm ẩn cho đến khi được thức động bởi một yếu tố hay hoàn cảnh đặc biệt nào đó. Có lẽ vì thế nên cuộc đời luôn luôn là những thử thách để nhắc nhở con người hãy tỉnh thức quay về với Thượng Đế, quay về với cái quê hương tinh thần lúc nào cũng sáng chói, đầy ân phước, hoàn hảo và tốt đẹp. Muốn sống một cách trọn vẹn, chúng ta phải biết làm sao cho phần tâm linh của chúng ta trở nên tốt đẹp, và không cách nào hữu hiệu hơn việc chân thành cầu nguyện, mở rộng cách cửa tâm hồn cho phần tâm linh được bay bổng, hướng thượng và trở về với cái quê hương tinh thần của nó. Đó là ý nghĩa cao đẹp nhất của sự sống.

Khi kinh nghiệm được điều nầy tôi muốn hét to lên quá sung sướng, tôi hiểu và đấng Cứu Thế cũng biết rằng tôi đã lãnh hội được điều ngài muốn dạy, cặp mắt tinh thần của tôi tự nhiên mở rộng ra để thấy rằng Thượng Đế đã tạo ra biết bao nhiêu vũ trụ, ân phước của ngài tràn đầy khắp nơi mà một người bình thường khó có thể hiểu được. Mọi năng lực trong vũ trụ, dù lớn hay nhỏ, dù tích cực hay tiêu cực cũng đặt dưới quyền lực của ngài.

Theo luật thiên nhiên, tích cực hấp dẫn tích cực và tiêu cực thu hút tiêu cực. Ánh sáng theo ánh sáng và bóng tối thích bóng tối, đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Nếu chúng ta phát triển các khả năng tiêu cực hay tiêu cực, chúng ta sẽ hấp dẫn và kết hợp với những người có khả năng tương tự. Khi nghĩ đến điều thiện, điều tốt thì chúng ta sẽ thu hút các luồng điện lành trong vũ trụ, và trái lại khi nghĩ đến các điều mình tham lam, ích kỷ thì môi trường chung quanh sẽ hấp dẫn các luồng điện xấu kéo đến. Tôi nhìn thấy rõ các mãnh lực xoay vần chung quanh mọi người tùy theo tư tưởng và hành động của họ. Tôi thấy rõ lời nói, hành động của họ ảnh hưởng đến các địa hạt chung quanh như thế nào và lôi kéo những năng lực vô hình trong thiên nhiên ra sao. Vì tương lai của con người là một sức mạnh có thể tạo ra những hoàn cảnh, do đó việc kiểm soát tư tưởng rất quan trọng. Sự vận hành của tư tưởng giống như một tia chớp phát sinh, thu hút những năng lượng trong thiên nhiên. Những năng lượng nầy lúc đầu mong manh như những sợi tơ, dần dần kết lại thành những mãnh lực, giống như tơ dệt thành vải, và trở thành một sức mạnh lớn lao có thể tạo ra những hoàn cảnh hay thay đổi nó một cách mầu nhiệm. Diễn tiến của tư tưởng xảy ra rất nhanh nên chúng ta cần biết kiểm soát các tư tưởng, nhất là các tư tưởng tiêu cực, phải thận trọng lời nói và nên tập cách giữ im lặng trong các hoàn cảnh tiêu cực...

Khi hiểu biết được sức mạnh của tư tưởng, tôi lại hiểu thêm một lần nữa về sức mạnh của tình thương. Tình thương luôn luôn điều động phần tâm linh và phần tâm linh sai xử các cơ quan vật chất. Nhưng tình thương phát xuất từ đâu? Hiển nhiên là từ Thượng Đế. Không có tình thương thì Thượng Đế đã không tạo lập ra vũ trụ nầy, do đó trước hết chúng ta phải biết yêu thương ngài. Biết yêu ngài chính là biết mở rộng trái tim mình để cho ngài rót vào đó những năng lượng đầy yêu thương của ngài, và đó chính là tình thương lớn lao nhất. Sau đó phải biết sử dụng cái năng lượng mà ta vừa nhận được để điều hòa phần tâm linh, để cho nguồn thương yêu nầy đi xuyên qua thân thể ta, ảnh hưởng đến tư tưởng, lời nói và hành động của chúng ta. Sau cùng phải biết ban rải nguồn thương yêu đó cho mọi người chung quanh, nhưng ta phải nhớ rằng chỉ khi trái tim ta tràn đầy tình thương thì ta mới có thể ban phát tình thương đó cho người khác được. Khi trái tim ta tràn đầy tình thương thì ta mới có thể ban phát tình thương đó cho người khác được. Khi trái tim của ta khép kín đối với tình thương của đấng thiêng liêng thì bất cứ điều gì chúng ta làm cho người khác đều chỉ là những việc có tính cách vị lợi, ích kỷ chứ không phải là bác ái, vị tha.

Một khi đã ý thức được năng lượng của Thượng Đế hiện diện trong ta thì ta cũng ý thức được nguồn năng lượng của ngài hiện diện ở nơi khác. Dĩ nhiên ta không thể nào không thương yêu cái phần đó của ngài trong kẻ khác được. Từ đó tôi hiểu rằng khi không biết yêu kính Thượng Đế, chúng ta đã từ chối cái năng lượng của tình thương từ cõi trên trút xuống, cánh cửa tâm hồn ta đóng chặt lại và đời sống sẽ dần dần trở nên khô khan, lạnh lùng. Khi trái tim ta không nhận được tình thương thì làm sao nó có thể yêu thương cho được! Khi lòng chúng ta đầy những nhỏ nhen. Ích kỷ thì làm sao ta có thể ban rải những năng lượng của tình thương cho người khác? Mọi sự thương yêu nếu có, đều chỉ là những vay mượn giả tạo, những toan tính hơn thiệt, những lợi dụng đòi hỏi, và chắc chắn đó không phải là tình thương chân thật.

Được che chở trong luồng ánh sáng của ngài, tôi ý thức rằng đã có lúc tôi nghi ngờ ngài, sợ ngài không thương yêu tôi. Khi tôi tôi nghĩ rằng ngài không yêu thương tôi là lúc tôi rời xa ngài nhưng thật ra không phải thế. Nay tôi ý thức rõ rệt rằng ngài chính là mặt trời, còn tôi chỉ là một hành tinh bé nhỏ xoay quanh mặt trời, khi gần, khi xa nhưng ánh sáng hay tình thương của ngài thì không bao giờ thay đổi cả. Tôi nhớ lại những lý do hay hoàn cảnh khi xưa mà tôi đã xa lánh ngài. Tôi biết có những người làm tôi xa lánh ngài nhưng lòng tôi không hề cảm thấy khó chịu hay cay đắng. Những người nay thật sự ra chỉ là nạn nhân của sự thiếu hiểu biết. Họ đã dạy về Thượng Đế bằng sự sợ hãi. Mục đích của họ có thể tốt nhưng tư tưởng và hành động của họ lại tiêu cực. Chính vì nghi ngờ mà họ không thể cho tình thương của Thượng Đế xuyên qua họ. Họ đã khép kín con tim lại và cố gắng trấn áp sự trống rỗng đó bằng lý luận đầy sợ hãi. Vì sợ hãi nên họ đã thu hút các mãnh lực của sự sợ hãi và đã dạy bảo qua sự sở hãi nầy. Họ hăm dọa, bắt buộc kẻ khác phải tin ở Thượng Đế, đưa ra các hình phạt ghê gớm khiến mọi người phải sợ ngài và dĩ nhiên người ta không thể thương yêu một Thượng Đế như thế được. Làm sao người ta có thể thương yêu trong sợ hãi? Làm sao người ta có thể hạnh phúc khi bị áp chế? Làm sao phần tâm linh có thể phát triển khi tinh thần bị bóp nghẹt? Khi tâm hồn đã khép chặt thì định luật về tình thương đã bị bẻ gãy rồi.

Đấng cứu thế nhìn tôi mỉm cười như khuyến khích. Ngài vui mừng vì thấy tôi đã kinh nghiệm được những điều cần thiết. Giờ đây tôi hiểu rằng chỉ có một Thượng Đế duy nhất. Không những tôi không tin có những định luật đại đồng điều khiển tất cả mà biết rằng đằng sau đó còn có một đấng tối cao nữa. Tôi hiểu rõ rằng vũ trụ nầy được tạo ra do tình thương của ngài và Thượng Đế chính là một tình thương thiêng liêng, bao la bất tận.

Được che chở trong luồng ánh sáng của ngài, giòng ý thức của tôi cứ tuôn chảy không ngưng với các câu hỏi và câu trả lời. Khi đã hiểu được các định luật thiên nhiên và tình thương của đấng Cứu Thế, tôi bắt đầu hiểu được những mãnh lực nầy có thể ảnh hưởng đến chúng ta trên phương diện vật chất như thế nào. Vì các yếu tố tâm linh trực tiếp ảnh hưởng đến vật chất nên khi phần tâm linh mạnh mẽ, nó sẽ ban cho phần vật chất những năng lực dồi dào, giúp thể xác có thể tránh được các bệnh tật hay chữa lành những vết thương. Vì tư tưởng có thể lôi cuốn những mãnh lực trong không gian, tích cực cũng như tiêu cực, nên khi con người mất niềm tin, tuyệt vọng, chán nản thì họ sẽ vô tình thu hút các mãnh lực tiêu cực và làm cho sự bảo vệ thân xác trở nên yếu dần để bệnh tật từ đó sinh ra. Khi người ta đã mất niềm tin, người ta thường đóng kín phần tâm linh lại, chỉ biết nghĩ mình một cách ích kỷ. Khi trái tim bị bóp nghẹt với các mãnh lực tiêu cực nầy thì con người chỉ còn biết đòi hỏi, xin xỏ một cách vô lý và càng không thỏa mãn, người ta càng tiêu cực càng mất niềm tin và càng ngày càng tự hủy hoại mình một cách đáng thương. Chỉ khi nào biết dẹp bỏ cái bản ngã chật hẹp, tham lam đó và mở rộng tâm hồn cho ánh sáng của Thượng Đế rót vào, không nghĩ đến mình hay cho mình, mà chỉ nghĩ đến sự điều hòa tuyệt diệu của một trật tự chung, của một quyền lực thiêng liêng cao cả, thì khi đó các mãnh lực tiêu cực mới bị đánh tan và chúng ta có thể khỏi bệnh mật cách mầu nhiệm.

Tất cả những việc chữa bệnh đều phải bắt đầu từ bên trong vì như tôi đã kinh nghiệm, phần tâm linh mới là chính, cái vỏ vật chất bên ngoài chỉ là phụ thuộc. Dĩ nhiên bàn tay của một y sĩ hay thuốc men có thể giúp người ta giảm bớt đau đớn do bệnh tật nhưng việc chữa lành tuyệt của căn bệnh hoàn toàn do các yếu tố tinh thần. Thể xác mà thiếu tinh thần thì không thể sống được, cũng như, tinh thần suy kiệt chính là nguyên nhân của những căn bệnh trầm kha ngày nay. Tiếc thay con người ngày nay đã quá tin tưởng vào sự "thần diệu" của thuốc men, của kiến thức y học mà quên đi sự mầu nhiệm của đấng tối cao lúc nào cũng sẵn có, và luôn luôn tác động một cách huyền bí, khó giải thích.

Thân xác chúng ta được cấu tạo bằng những tế bào. Những tế bào nầy được sắp đặt trong một chương trình tuyệt hảo để có thể nuôi dưỡng sự sống. Chúng tự thay đổi, sinh sản và loại trừ những tế bào đã cũ, đã hư hỏng, hay thiếu hiệu năng. Mặc dù chúng thu hút các chất bổ dưỡng từ môi trường chung quanh nhưng cái chương trình tuyệt hảo điều động chúng làm việc chính là phần tinh thần hay tâm linh nằm sâu ở bên trong mọi chúng ta. Cũng như thế, phần tâm linh của chúng ta nhận sự điều động từ tình thương của đấng Thượng Đế, do đó khi nó khép chặt cách cửa nầy, không tin tưởng hoặc phủ nhận ngày, thì nó sẽ phá hoại các chương trình tuyệt diệu đang điều hành phần vật chất của chính nó, và từ đó bệnh tật có cơ hội phát sinh. Nói một cách khác, bệnh tật chẳng qua chính là sự hủy hoại trên một phương diện thâm thúy nào đó. Khi con người nản chí ngã lòng, họ thường thốt ra những câu như "tôi đau", "tôi nhức", "tôi bị bỏ quên", "tôi khổ quá", "tôi không thể chịu đựng được",... Phải chăng luôn luôn có "cái tôi" trong những câu than van đó? Phải chăng không những mình đã chấp nhận cái tiêu cực đó là của mình và còn đón nhận nó vào bên trong nữa?

Giờ đây tôi chợt thấy chính mình là nguyên nhân của những căn bệnh mình mắc phải. Mọi sự kiện đã xảy ra đều do mình đã chấp nhận nó như thế. Muốn chữa bệnh, việc đầu tiên là phải thay đổi sự suy nghĩ tiêu cực bằng những hành động và lời nói tích cực, người ta nên bắt đầu bằng sự cầu nguyện, nhưng cầu nguyện không có nghĩa là đòi hỏi, van lơn hay mong cầu một cách ích kỷ mà là biết chấp nhận việc đã xảy ra, rồi đặt tất cả vào tay Thượng Đế để ngài hành động. Phải biết chân thành cầu nguyện thì sức mạnh của đức tin sẽ thu hút được các luồng thần lực trong vũ trụ giúp chúng ta chữa lành căn bệnh. Điều quan trọng là chúng ta không nên chói bỏ sự hiện hữu của bệnh tật hay các nỗi khó khăn, nhưng phải biết chối bỏ sức mạnh của nó đối với chúng ta. Chúng ta cần sống với đức ti chứ không phải chờ khi có kết quả rồi mới tin tưởng. Sự nhìn thấy kết quả hay nhận thức vốn là hoạt động của trí não, mà trí não thường phân tích, chứng minh và hợp lý hóa mọi vần đề. Nó chỉ là những lý luận của thể xác, không thể so sánh với đức tin vốn được phần tâm linh điều khiển. Phần tâm linh xây dựng trên các yếu tố cảm xúc, chấp nhận và tiếp thu. Muốn có đức tin, chúng ta phải biết cách mở rộng cõi lòng để có thể cảm nhận được các năng lực cao cả của đấng thiêng liêng. Phát triển đức tin giống như người đi gieo hạt, dù có vài hạt rơi rớt ra ngoài nhưng tựu trung chúng ta vẫn gặt hái được kết quả. Bất cứ hành động nào xây dựng trên đức tin chân thành chắc chắn có kết quả và đó là định luật thiêng liêng.

Cho đến lúc đó tôi mới thấy được sức mạnh của tinh thần tác dụng trên vật chất biết là mạnh mẽ biết chừng nào. Đây là một điều mà trước đây tôi không hề biết đến, mà đa số có lẽ đa số mọi người cũng không mấy ai để ý. Tôi thấy tinh thần có những hoạt động riêng biệt mà trí óc không thể hiểu được. Tinh thần thường xuyên giao thiệp với các nguồn thần lực phát xuất từ Thượng Đế. Nó là khi cụ tiếp nhận sự hiểu biết và sáng suốt của ngài. Tôi nhìn thấy cái phần tinh thần nầy sáng chói giống như một bóng đèn điện trong thân xác con người. Khi nó tỏa sáng thì trung tâm chúng ta tràn đầy ánh sáng và tình thương, và chính mãnh lực nầy cho thể xác sự sống và sức mạnh. Khi nó yếu đi thì tinh thần con người suy giảm và thể xác của con người bắt đầu có dấu hiệu của sự tàn tạ, tiêu vong. Điều đáng nói ở đây là đa số con người lại không nghĩ như vậy. Họ bỏ ra rất nhiều thời gian để săn sóc cái thể xác tạm bợ nầy. Lo cho nó ăn thật ngon, ngủ nghỉ thật nhiều, chăm sóc cho các nhu cầu của nó mà không hề biết lo cho phần tinh thần. Tôi còn biết rằng chính chúng ta đã chọn bệnh tật cho chính mình qua thái độ của chúng ta trước cuộc sống. Những người tham lam, ích kỷ chỉ thu tập vào chứ không biết cho ra, đã vô tình thu hút những năng lực tiêu cực vào mình và đó là một trong những nguyên nhân của bệnh ung thư. Các tế bào tích tụ các năng lực nầy sẽ phát triển bất thường, sưng phồng lên thành các cục bướu. Những người sử dụng quyền lực đàn áp, ức hiếp người khác sẽ thu hút các mãnh lực tiêu cực và các mãnh lực nầy sẽ bóp nghẹt tim hay phổi. Tuy nhiên bệnh tật còn là những bài học rất tốt giúp chúng ta phát huy phần tinh thần và sự học hỏi đau đớn khi bị bệnh sẽ giúp người đó ý thức hơn về hậu quả các hành động của họ.

Được bao bọc trong luồng ánh sáng của Thượng Đế. Tôi biết rằng sự chấp nhận tất cả là một kinh nghiệm quan trọng. Khi biết chấp nhận các sự kiện tiêu cực đã xảy ra và gắng sức vượt qua, người ta học được cách vô hiệu hóa các mãnh lực tiêu cực nầy và đó chính là bài học quan trọng mà con người cần phải học. Tôi ý thức rằng con người có thể chữa lành chính họ qua việc chấp nhận để phát triển, khởi đầu là tinh thần, tình cảm, trí não và sau cùng là đến thể chất vì ai cũng có quyền sống một cuộc đời sung mãn. Con người cần biết xả bỏ dĩ vãng, đã phạm lỗi thì cần biết ăn năn và sửa đổi, nếu làm tổn hại cho người khác thì phải biết cách chuộc lại những lỗi đó, nếu làm tổn hại tâm linh mình thì phải biết cầu xin tình thương của Thượng Đế để chữa lành. Khi ngã thì biết tiếp tục đứng dậy và đi nữa, dù có ngã cả triệu lần người vẫn có thể đứng dậy và tiếp tục vì đó là bài học mà họ cần phải học.

Kinh nghiệm được điều nầy tôi thấy rằng tuyệt vọng chính là một sự kiện ghê gớm mà ta cần phải tránh. Đôi khi sự tuyệt vọng, ngã lòng, thối chí có thể dẫn đến tìm một lối thoát bằng cách tử tự. Đó là một hành động sai lầm, có tính cách nhất thời, làm lỡ cơ hội học hỏi ở trần thế và khi bước qua cõi sáng nhìn lại, ta sẽ tiếc nuối cái cơ hội học hỏi nầy biết bao.

Con người cần biết rằng họ xuống trần để học hỏi, kinh nghiệm và điều quan trọng là không nên khắt khe quá đáng với chính mình. Chúng ta cần đi từng bước một, kinh nghiệm từng sự kiện một, không lo lắng trước sự phán đoán chê trách của người đời và cũng không lấy thước đo của họ mà đo lường hành động của chúng ta. Chỉ có Thượng Đế là người phán xét duy nhất và chúng ta có trách nhiệm định luật đối với các định luật thiêng liêng của ngài. Tôi biết rằng tất cả sự sáng tạo đều khởi đầu bằng tư tưởng nên mọi tội lỗi, lầm lạc, tuyệt vọng, hy vọng, sự ghen ghét hay tình thương cũng bắt đầu từ tư tưởng. Cũng như thế, bệnh tật hay sự chữa lành bệnh cũng bắt đầu từ tư tưởng. Tóm lại, chúng ta có thể tạo hạnh phúc hay đau khổ co chính chúng ta qua tư tưởng.

Được che chở trong luồng ánh sáng tuyệt vời, tôi thấy rõ trái đất đang xoay trong không gian như không hiểu sao lại có những tia sáng từ đó phát ra như những ngọn hải đăng. Có những tia sáng thật mạnh nhưng cũng có những tia sáng yếu ớt và bất chợt hiểu được rằng đó là những lời cầu nguyện của người trần thế. Những lời cầu nguyện chân thành, tràn đầy đức tin thì mạnh mẽ và thường được đáp ứng ngay, trong khi những lời van xin, đòi hỏi, lặp đi lặp lại thì không mấy khi phát ra ánh sáng. Tôi còn biết rõ những lời cầu nguyện có tính cách hứa hẹn, mua chuộc của những người muốn ao ước một cái gì đó cho mình. Họ hứa hẹn với Thượng Đế sẽ làm thế nầy hay thế nọ nếu lời cầu xin được toại ý, như để ngài là một người sẵn sàng mua bán, trao đổi với họ. Thực sự họ không hề có đức tin và luôn luôn nghi ngờ vì khi không toại ý họ thường nổi giận mà không biết rằng tự hào đã tạo ra một hàng rào ngăn cách giữa họ và Thượng Đế. Giờ đây tôi hiểu rằng không những Thượng Đế nghe được tất cả mọi lời cầu nguyện của thế gian mà còn biết rõ nhu cầu của người khác khi họ cầu nguyện nữa.

Ký ức tôi tự nhiên mở rộng. Tôi có thể thấy được những kỳ công của đấng Sáng Tạo từ những thai dương hệ xa xưa đến những giải thiên hà nằm ngoài sự hiểu biết của chúng ta. Tôi cảm thấy như có một mãnh lực nào đó thúc giục, lòng ham hiểu biết trổi lên và tôi thấy mình đang đi trong một khoảng không gian vô tận. Mặc dù chung quanh tối đen nhưng tôi không hề thấy sợ hãi. Tôi thấy người nhẹ nhõm có thể bay bổng hay làm tất cả những gì tôi muốn. Tôi tự do vùng vẫy trong khoảng không gian thênh thang nầy và bất chợt ý thức rằng ngay cả khoảng trống dường như không có gì nầy cũng tràn đầy tình thương của Thượng Đế. Tôi nghe thoang thoảng đâu đây một âm thanh êm dịu, vui tươi và thấy hết sức thoải mái. Thì ra âm thanh nầy có mãnh lực chữa lành mọi sự. Nó giống như lời an ủi thiêng liêng, biểu lộ một tình thương không bờ bến có thể hàn gắn mọi đổ vỡ tâm linh. Đến lúc đó tự nhiên tôi hiểu biết về sức mạnh của âm thanh với các công năng mầu nhiệm của nó. Nếu một nhạc sĩ cảm xúc được nguồn sáng tạo cao cả nầy, họ có thể soạn được những bản nhạc tuyệt vời, có thể hướng dẫn tâm hồn người nghe rung động với nhịp sống của vũ trụ, nhưng nếu một nhạc sĩ thiếu lòng tin, không biết mở rộng tâm hồn, sẽ soạn ra những nhạc điệu tiêu cực khiến tâm trí người nghe bị xáo trộn, xác thân thêm bệnh hoạn vì các nhịp điệu có tính cách hủy hoại.

Tôi tiếp tục thăm viếng những hành tinh, những giải thiên hà, những thế giới khác với thế giới của chúng ta nhưng trong đó cũng có dân cư, sinh vật và tôi biết rằng tất cả đều là con của Thượng Đế cũng như chúng ta, nhưng không hiểu sao tôi không nhớ rõ chi tiết những chốn nầy mà chỉ còn các ấn tượng mà thôi. Sau nầy khi trở lại cõi trần tôi thấy mình dường như bị lừa gạt vì đã không nhớ được nhiều về các cõi giới mà tôi đã đi qua, nhưng tôi biết rằng sự kiện nầy thực ra có ích cho tôi. Nếu có thể ghi nhận những nơi chốn tốt đẹp ấy thì biết đâu tôi lại chẳng chán ngán cuộc sống hiện tại và có thể làm cho đời sống mất đi cái ý nghĩa đích thực của nó...

Tự nhiên tôi thấy mình đang bước đi trong một đường hầm tối đen và tôi biết rằng đã đến lúc tôi phải trở về. Tôi nghe văng vẳng đâu đây cả ngàn tiếng ca hát khuyến khích. Lời ca hết sức hùng mạnh và tràn đầy một tình cao cả vô bờ bến. Trái tim tôi rung động hòa nhịp với tình thương bao la đó khiến tôi cảm động muốn òa lên khóc. Tôi không bao giờ tin được một người tầm thường như tôi lại có diễm phúc được hưởng một ân phước lớn lao như vậy, nhưng tôi cũng biết rằng trong cõi vĩnh cửu không có ai là tầm thường cả. Mọi linh hồn đều có một giá trị vô cùng cao cả vì tất cả đều bắt nguồn từ đấng sáng tạo.

Tôi thấy mình đang đứng trong căn phòng bệnh viện, cửa vẫn khép hờ, ngọn đèn trên bồn rửa mặt vẫn leo lét sáng và thể xác tôi vẫn nằm yên trên giường. Tôi nhìn cái vỏ vật chất lạnh lẽo bất động đó và có cảm tưởng dường như đó là một bộ quần áo củ mà người ta thường lượm ở đâu về. Tôi đang được tắm gội trong biển ánh sáng đẹp đẽ biết bao mà nay phải mặc lại bộ quần áo nặng nề, lạnh lẽo như thế nầy sao? Tuy nhiên tôi ý thức được nhiệm vụ giao phó và lời đấng Cứu Thế đã dặn dò nên đành phải trở lại với nó. Tôi cảm thấy như có một luồng điện giật mạnh khiến toàn thân tôi rung động và chợt ý thức được sự đau đớn của vết thương trên da thịt. Ba người bạn thân đã xuất hiện ngay bên cạnh giường. Họ nhìn tôi âu yếm như chia sẻ với tôi về sự đau đớn mà tôi đang trải qua. Tôi cố gắng nói với họ nhưng sao cứ thều thào không thành tiếng. Tôi muốn cảm tạ tạo họ về tình bằng hữu bất diện. Tôi muốn thốt lên "Tôi thương các bạn" nhưng không sao nói nên lời. Tôi đành nhìn họ bằng cặp mắt chan chứa lệ và họ cùng nhìn tôi bằng ánh mắt đầy thiện cảm, dường như họ hiểu điều tôi muốn nói. Tự nhiên tôi nghe văng vẳng một lời chúc lành, đồng thời một sức mạnh kỳ diệu, êm ái, bình an đưa tôi chìm dần vào một giấc ngủ đẹp đẽ.

Khi tôi tỉnh dậy thì đồng hồ trên bàn chỉ đúng hai giờ sáng. Như vậy tôi đã "chết" được hơn bốn tiếng đồng hồ. Trong bốn giờ đó tôi đã kinh nghiệm được bao nhiêu điều. Tôi nằm im, ôn lại những chuyện đã xảy ra, cảm thấy lòng tràn trề sung sướng vì đã được gặp đấng Cứu Thế và ở trong vòng tay của ngài. Tôi cảm thấy khỏe khoắn hơn và ánh sáng của ngài sẽ tiếp tục soi sáng tôi, đem lại cho tôi sự che chở và an ủi khi cần. Tôi cũng biết rõ rằng Thượng Đế chính là tình thương, và xuyên qua tình thương của ngài, niềm vui lớn lao nhất sẽ đến. Tôi đã nhìn thấy các phần thưởng tuyệt diệu của nó, đã kinh nghiệm được rằng chết không phải là điều gì đáng sợ. Điều quan trọng của cuộc đời không phải tìm cách tránh né sự chết hay quá lo sợ vì nó nhưng để sống, sống một cách thoải mái, trọn vẹn trong tình thương của Thượng Đế. Các kinh nghiệm mà tôi ghi nhận lại đây chỉ có ý nghĩa khi nó có thể giúp con người thay đổi thái độ của họ đối với cuộc sống, hiểu rằng mục đích của đời sống chính là để yêu thương, mọi việc khác chỉ là phụ thuộc.

Tôi nghe văng vẳng đâu đây lời dặn dò cuối cùng của Thượng Đế, một thông điệp rất giản dị mà ngài vẫn nhắc đi nhắc lại nhiều lần: "Các con hãy yêu thương lẫn nhau."
-
Mời đọc:
Kinh nghiệm Sự Chết của Cha Jose Maniyangat, sau khi được sống lại năm 1985.
Tôi đang lái xe gắn máy thì bị một người say rượu lái chiếc xe jeep đụng vào đầu xe. Sau đó người ta chuyển tôi đến bệnh viện cách xa khoảng 35 dặm. Trên đường tới bệnh viện, linh hồn tôi đã lìa khỏi xác, và tôi đã cảm nghiệm được sự chết. Ngay lúc đó, tôi gặp Thiên Thần bản mệnh. Tôi được nhìn thấy thân xác của tôi và những người đưa tôi đến bệnh viện.
Tác giả Betty Eadie (Nguyên Phong dịch)