Trang chủ

Sonntag, September 30, 2012

ĐÓN NHẬN MARIA LÀ MỞ CỬA ĐÓN CHÚA THÁNH THẦN
  
+ Hồng-y L. J. Suenens
Người dịch   Nguyễn đăng Trúc

“Giáo-hội phải tìm lại tuổi xanh, bằng cách tìm lại Người Mẹ của mình” (Hồng y Decourtray)
  
1- Mầu-nhiệm Nhập-thể làm cho chúng ta thành thần thánh 
Chúng ta chưa nắm bắt được chiều kích của tiếng “Xin vâng” của Mẹ Maria trong mầu nhiệm Nhập thể vì chúng ta nhìn sự kiện nầy dưới nhãn quan quá trần tục. Chúng ta quên hoặc không nhấn mạnh đến khía cạnh siêu nhiên: Con Thiên Chúa đã làm người để con người trở thành con Thiên Chúa trong Ngài. Có hai chiều luân chuyển: một chiều đi xuống và một chiều đi lên. 
Chúng ta đã cố thấm nhập khía cạnh “Ngài đến giữa chúng ta” trong khung cảnh huy hoàng của đêm Giáng-sinh; chúng ta thờ lạy Chúa Hài đồng với các mục đồng và các nhà chiêm tinh, nhìn ngắm khuôn mặt rạng rỡ của Maria và Giuse.
 Nhưng có một chiều kích khác: trời cao đã đến với chúng ta để đưa chúng ta về trời. Mầu nhiệm Nhập thể là khởi nguyên làm cho chúng ta thành thần thánh. Trong Đức Giêsu, Con một của Thiên Chúa, chúng ta trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa.
Không phải chỉ có sự kiện trời hé mở để Con Thiên Chúa đi vào trần thế, nhưng cuộc giáng trần kỳ diệu ấy cũng đang mở cửa để chúng ta đi vào gia đình Thiên Chúa Ba Ngôi, mặc dù bước đường đi lên của chúng ta còn ẩn kín, nhưng nó hiện thực.
Nhìn từ trên cao xuống, chúng ta chiêm ngắm Chúa Cha, Đấng ban Thánh Thần cho chúng ta trong Chúa Con và nhờ Chúa Con. Đó là then chốt của mầu nhiệm mà thiên thần truyền báo cho Maria: “Thánh Thần bao phủ bà bằng bóng dọi của Ngài” (Lc. 1, 35). Nhưng đó cũng là chìa khóa đưa chúng ta vào mầu nhiệm thần-hóa chúng ta. Công cuộc thần-hóa nầy cũng do Thánh Thần ấy, là Đấng mà Chúa Cha và Chúa Con gửi đến cho chúng ta vào ngày Hiện Xuống. Anh em sẽ được rửa trong Thánh Thần. Đó là lời “đối xứng” với lời của thiên thần trong lần truyền tin đầu tiên cho Maria.
Cuộc gặp gỡ đất-trời nhờ Thánh Thần và lời “xin vâng” của Maria trong buổi truyền tin, bao trùm mầu nhiệm Nhập thể. Tiếng xin vâng nói với con Thiên Chúa, Đấng Cứu độ nhân trần, đến để thần-hóa con người bằng cách thông ban Thánh Thần của Chúa Cha và Chúa Con; công cuộc thần-hóa ấy đúng là hoa trái của ơn cứu độ. Tiếng xin vâng nầy là trần thế xin vâng theo “chương trình của Thiên Chúa” được thực hiện trên Maria; Maria nói “xin vâng” nhân danh toàn nhân loại. 
Theo cái nhìn của Thiên Chúa, mầu nhiệm Nhập thể của Đức Giêsu không tách rời khỏi việc khai sinh ra Giáo-hội, vì Giáo hội là thân thể Chúa Giêsu Kitô, được Thánh Thần thông truyền và quảng bá cho nhân loại. Vào ngày Hiện Xuống, mầu nhiệm Nhập thể mở ra cho trần thế nhìn thấy; đây là thời mới của Thiên Chúa, là kỷ nguyên mới bắt đầu thời của Thánh Thần.
Tiếng xin vâng đầu tiên của Maria đã hàm ngụ tiếng xin vâng trong ngày Hiện Xuống; Maria lần nầy nói tiếng xin vâng để khai sinh công cuộc rao truyền Tin Mừng, vì từ nay Chúa Kitô hành động nhờ Thánh Thần. Maria Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ trở thành Mẹ của Giáo-hội. Mẹ thân xác tiếp nối làm Mẹ tinh thần, nghĩa là Mẹ trong Thánh Thần.  Không bao giờ được phân rẽ điều mà Chúa đã kết buộc: “Maria và Thánh Thần”.
Chúng ta có thói quen chỉ đặt Đức Maria trong khung cảnh của mầu nhiệm Nhập thể “từ trên xuống”. Chúng ta cũng cần phải định vị vai trò của Mẹ ở tiến trình “đi lên” trong kỷ nguyên mới bắt đầu từ ngày Hiện Xuống của Thánh Thần.
Thánh Phaolô gọi Đức Kitô là Thần ban sự sống để nhấn mạnh rằng chúng ta đã đi vào kỷ nguyên của Thánh Thần. Và Maria là người đầu tiên đi vào thời đại ấy, thời đại của Giáo-hội.  Chúng ta gọi Giáo-hội là “Hội-thánh Mẹ chúng ta”. Và chúng ta gọi Maria là Mẹ của Giáo-hội.
 Chúng ta chưa ý thức rõ rằng, không phải là hai chức làm mẹ ở gần nhau, nhưng kỳ thực chỉ là một thân phận làm mẹ chúng ta nơi Maria, nối dài đến Giáo-hội hữu hình đang sinh ra những người con qua nước của bí tích Rửa tội. Chúng ta phải đón nhận Maria vì Đấng sinh ra cho chúng ta trong Mẹ là do Chúa Thánh Thần. Chúng ta đón nhận Mẹ Maria, là chúng ta mở lòng tiếp nhận Thánh Thần.
Chúng ta còn chập chững lần mò tiến đến kho tàng “bí nhiệm của Ngày Hiện Xuống”.  Maria có mặt ở Phòng-hội lúc ấy, ở giữa một trăm hai mươi môn đệ. Đây không phải là sự trùng hợp bất chừng, nhưng là để Mẹ khai nguyên một đàn con mới vào lúc mà Người Con duy nhất của Mẹ khai nguyên “một mùa rao giảng Tin-mừng mới” trong Thánh Thần và do Thánh Thần.                 
Kỳ thực, sự kiện đó đã qua. Sứ mệnh của Chúa Giêsu nay là sứ mệnh của Đức Kitô phục sinh và hằng sống, thực hiện nhờ Chúa Thánh Thần.
Chính Thánh Thần sẽ dần dần mặc khải cho chúng ta những gì chúng ta chưa từng hiểu thấu; chính Ngài sẽ thực hiện nơi chúng ta những việc trọng đại, còn hơn cả những gì Chúa Giêsu đã làm lúc còn tại thế. Chính Thánh Thần - là thần trí của Ngài - ban sự sống cho Giáo-hội và dấy lên các vị thánh.
Tôi tin Thánh Thần “ban sự sống”. Và Maria kết hợp với Thánh Thần luôn mãi. Mẹ tiếp nhận mọi sự từ Chúa Thánh Thần. Maria làm mẹ nhằm giúp chúng ta biết rằng cần phải để Chúa Thánh Thần làm mọi sự trong chúng ta. Mẹ được đưa về trời là việc làm của Thánh Thần, Đấng chu toàn công trình tạo dựng của Thiên Chúa, “đây là sứ mạng hoàn thành”.
Giao ước “Thánh Thần - Maria” nầy giúp chúng ta hiểu chương trình tạo dựng theo hình ảnh và giống Chúa; và để trung thực với hình ảnh của mình, Ngài đã dựng nên con người là đàn ông và phụ nữ. Đã có một truyền thống nhìn Chúa Giêsu là Ađam mới và Maria là Evà mới. Truyền thống ấy cho thấy có sự bổ sung phong phú.
Đây không phải là hai thành phần bình đẳng: Giêsu - Maria. Nhưng có một sự bổ sung về vai trò và chức năng, có một khía cạnh “nữ” nơi Maria, đóng vai trò đặc biệt của mình, mà Phúcâm đã ghi, chẳng hạn ở tiệc cưới Cana. Có môt khía cạnh “nữ” trong Giáo-hội.
Linh mục Da Haes đã từng nói: “Maria, đó là Giáo-hội toàn hảo”. Nhưng đừng nên nhân đôi vai trò của Chúa Giêsu, rồi vai trò Đức Maria. Không phải như thế, vai trò của Maria không nằm trong khung cứu độ. Chỉ có Chúa Giêsu là Đấng trung gian, là Đấng Cứu-độ. Nhưng Maria tiếp nhận ơn cứu độ duy nhất ấy và giúp mọi người mở rộng lòng đón nhận ơn ấy.
Kết hợp Giáo-hội khải hoàn và các thánh với Maria, công trình đặc biệt của Chúa, là ca tụng vinh quang Chúa. Maria là Nữ-vương Thiên đàng và các thiên thần. Mọi hành động của Mẹ là Thánh Thần ở trong Mẹ và nhờ Mẹ. Đó là Thánh Thần của Chúa Con. Đó là Thánh Thần của Chúa Cha. Toàn thể con người Maria là trong Chúa Thánh Thần và trong Chúa Kitô.
Chỉ có Chúa Thánh Thần mới cho chúng ta biết về Maria. Chính Chúa Thánh Thần dạy Maria gọi tên “Giêsu”. Chính Chúa Thánh Thần chuẩn bị Maria để chu toàn sứ mệnh của mình, khi Ngài tạo dựng nên Mẹ toàn thánh, hoàn toàn vô nhiễm ( làm nhà tạm của Chúa). Maria là sự vinh quang của Thánh Thần, toàn thắng tội lỗi và sự chết, vì Thánh Thần đã phục sinh Chúa Giêsu từ cõi chết.

1-  Một giao ước có hai chiều kích 
Hồng y Mercier đã viết rằng: “Kitô giáo là một giao ước của hai mối tình trong Chúa Giêsu Kitô”. Tình yêu Thiên Chúa đến từ trời cao để thực hiện giao ước thần thánh, tình yêu ấy gọi là Thánh Thần. Tình yêu con người từ đất vươn lên gặp gỡ Chúa, được gọi là Maria.
Hẳn nhiên, tình yêu nơi Maria vươn lên gặp gỡ Thánh Thần, thì đã có sự can thiệp của chính tình yêu đi trước của Chúa rồi. Maria đã đón nhận Thánh Thần vào cuộc sống mình, còn Chúa Thánh Thần linh hoạt việc làm của Mẹ.
Đất đã cho hoa trái và trời đổ mưa Đấng Cứu-độ nơi Maria: lời hứa làm nên toàn giao ước cũ nay thực hiện nơi Maria. Mầu nhiệm Nhập thể và tất cả những sự việc phát sinh từ sự kiện nầy lại nằm nơi mối giao thoa gặp gỡ giữa Thiên Chúa và nhân loại, nơi Israel, dân Chúa. 
Chúng ta dừng lại nơi điểm được xem là tâm điểm của mầu nhiệm nầy: sự gặp gỡ giữa Thánh Thần và Maria. “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ phủ trên bà...” (Lc. 1,35).
Đây có phải là một sự kiện lịch sử xa xưa, đã qua đi rồi không? Hay những lời nầy hé mở cho mọi thời đại trong tương lai một qui luật bất biến về hành động của Thiên Chúa trên trần gian? 
Vấn đề nêu lên rất quan trọng. Thu hẹp giao ước của Thánh Thần và Maria vào sự kiện sinh Chúa Giêsu, là giản lược giao ước nầy ở cấp độ một thời điểm lịch sử; dù có lớn lao cũng chỉ là một giây lát, rồi mọi sự đi vào dĩ vãng. Đó là định vị Đức Maria trong lịch sử, chứ không phải trong hiện tại hay trong tương lai.
Phải chăng đó là điều Chúa muốn? Hay là cần phải hiểu rằng Thánh Thần luôn luôn đến bao phủ Mẹ bằng sức mạnh của Ngài? 
Cùng với toàn thể Giáo-hội Công-giáo, chúng ta tin rằng sự kết hợp giữa Thánh Thần và Maria được thực hiện cho muôn thế hệ, giao ước nầy từ đấy không bao giờ hủy bỏ, và đến nay Chúa Giêsu vẫn tiếp tục sinh ra một cách kín đáo trong tâm hồn mọi người, nhờ Thánh Thần và nhờ Mẹ Maria.
Chúng ta tin vào mầu nhiệm nầy, mầu nhiệm nằm sâu trong công trình cứu chuộc của Chúa, vì, như chúng ta sẽ thấy sau nầy, Maria và Giáo-hội làm nên một. Đến độ sinh ra từ “Thánh Thần và Mẹ Maria” có nghĩa là sinh ra từ “Thánh Thần và từ Giáo-hội “; và Phép rửa đem lại cho chúng ta sự sống là kết quả của người mẹ, vừa là hai và vừa duy nhất nầy, dù bằng phương thức khác nhau.
Mọi việc sùng kính Đức Mẹ Maria mà không biết đến hay xem nhẹ mầu nhiệm nầy, thì chỉ là một lối sùng kính nặng tình cảm, mơ hồ và thiếu sinh lực. Vì khi tách khỏi căn rễ sâu kín thật sự nầy, thì lòng sùng kính của ta chỉ như một đóa hoa trồng trong chậu chứ không phải là một cây cổ thụ đâm rễ sâu xuống lòng đất. Nó sẽ bị vùi dập bởi bất cứ ngọn gió nào lướt đến, thay vì là “cây xanh kia tươi tốt trồng gần giòng suối, nảy sinh hoa trái đúng mùa và cành lá không tàn úa” (Tv. 1, 3).
Thiên chức làm mẹ của Maria có rễ sâu trong chính mầu nhiệm Nhập thể. Phải luôn trở lại điểm then chốt nầy. Vì mầu nhiệm Nhập thể đã hàm ngụ ngay cả sự cứu độ rồi. Đấng sinh ra chỉ đến trần gian là để hiến thân làm của lễ tế. Ngài không chết như mọi con người khác vì Ngài đã sinh ra làm người: nhưng Ngài sinh ra là để chết.  Ngài sinh ra trong cương vị thầy cả và là lễ tế của ơn Cứu độ.
Những bà mẹ nhân trần sinh con, và các con một ngày kia có thể trở thành tư tế. Đối với các linh mục, phẩm giá tư tế là một ơn nhưng không, không tùy thuộc từ bản tính tự nhiên của họ. Trái lại, Maria là Mẹ của Chúa Giêsu, Đấng sinh ra là tư tế do tự sự kiện Nhập thể nầy, Ngài là con chiên của Thiên Chúa. Vì vậy thiên chức làm Mẹ của Maria hoàn thành nơi mầu nhiệm Cứu-độ. 
Mầu nhiệm Cứu-độ là một mầu nhiệm có hai khía cạnh: nó vừa có nghĩa là Thiên Chúa, Đấng Tối-cao, Siêu-việt, luôn là Thiên Chúa nơi Ngài, đã xuống thế để ở giữa chúng ta. Nhưng nó cũng là một cử chỉ đưa con người lên tham dự chính bản tính của Thiên Chúa.
Chúa làm người, nhưng cứu cánh của mầu nhiệm Nhập thể là thần hóa con người, làm cho con người tham dự vào bản tính của Chúa, trở thành nghĩa tử, được chọn và yêu mến trong Người Con duy nhất của Ngài: đây là một “cuộc trao đổi kỳ diệu”, theo lối nói của phụng vụ: Con Thiên Chúa đã thành người trong Đức Maria để chúng ta thành hình ảnh của Thiên Chúa, nghĩa là được thần hóa.
Thiên Chúa làm người nhưng vẫn là Thiên Chúa, và đồng thời Ngài thần hóa chúng ta, biến đổi thân phận chúng ta, nhưng chúng ta vẫn luôn là người. Chính nhờ tiếng “xin vâng” của Đức Maria mà chúng ta đi vào “cuộc trao đổi kỳ diệu"õ nầy, để được thần hóa như Đức Kitô đã được nhân hoá. Đó là chiều sâu và rộng của Giao ước làm điểm khởi nguyên cho đời sống Kitô hữu, và làm trọng điểm cho mọi công cuộc truyền bá Phúc-âm chân thật.

3- Bước đầu dẫn đến Giao-ước: Đức Maria vô nhiễm sinh ra đời 
Lễ sinh nhật Đức Maria ( ngày 18 tháng 9 ) cống hiến cho chúng ta cơ hội để mừng hai giao ước:
- Giao ước đầu liên quan đến trời cao: dẫn đưa chúng ta vào chương trình cứu độ trần thế của Chúa.
- Giao ước thứ hai liên quan đến cuộc sống nhân trần: là gió mát lúc hừng đông, trong buổi sáng đầu tiên.
  
Nhìn từ trời cao 
Đây là một lễ của Ba Ngôi Thiên Chúa; giây phút đầu chuẩn bị Giao-ước sẽ nối Đất - Trời.
- Maria là người con gái mến yêu của Chúa
Cha, Đấng chuẩn bị cho Mẹ hoàn thành thân phận cao cả.
- Ngài sẽ là Mẹ Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng sẽ chọn Mẹ làm nơi cư ngụ.
- Ngài là người sẽ nói “xin vâng” quyết định đón Chúa Thánh Thần đến vào lúc Truyền tin.

Nhìn từ phía nhân trần 
Chúng ta có thể làm cách nào để mừng lễ sinh nhật Đức Maria, ngày 8 tháng 9 theo niên lịch phụng vụ của chúng ta, một cách sốt sắng và ý thức hơn chăng?, vì chúng ta đã mừng lễ ấy mỗi năm, nhưng chưa đúng mức trong khuôn khổ nếp sống của người Kitô hữu.
Trước hết, mong sao Kitô hữu cố găng tham dự Thánh-thể mà Giáo-hội cử hành trong ngày kỷ niệm sinh nhật Mẹ Thiên-đàng của mình, và lôi kéo thêm người khác cùng tham dự.
 Chúng ta giờ đây nên đi vào nội dung của lời kinh mà phụng vụ giúp chúng ta suy niệm trong ngày ấy:
“Lạy Chúa, bởi mầu nhiệm hiệp thông nầy, Chúa mang lại sức lực cho Giáo-hội Chúa; xin Chúa làm cho Giáo-hội vui mừng, hân hoan vì Đức Trinh-nữ Maria được sinh ra, đem đến niềm hy vọng và bình minh ơn Cùu độ cho trần thế”.
Trên bình diện cuộc sống gia đình, nên chuẩn bị và mừng lễ nầy ở ngay trong nhà mình; có thể dặt mẫu hình sinh nhật Đức Maria[1] trên bàn thờ trong nhà (ở xã hội Tây phương người ta hay dọn một nơi cầu nguyện ở góc nhà). 
 Ngày lễ nầy trong phụng vụ cũng có một âm hưởng đặc biệt trong những nơi đã biết đến chuỗi nhỏ FIAT; chuỗi nhỏ nầy phổ biến rộng rãi trên thế giới, khai sinh vào ngày 08.9.1984. Mầu nhiệm vui đầu tiên của chuỗi nầy là “Sinh nhật của Mẹ Maria”.
Khi mừng lễ sinh nhật Đức Mẹ, chúng ta chuyển những tình cảm hiếu thảo của mình trong ngày lễ Các bà mẹ (thường rất phổ biến ngày nay) lên đến mức siêu nhiên.
Nhân loại có thể biết hay không biết, nhưng với con mắt đức tin, Maria là Mẹ của toàn nhân loại; Maria là Mẹ của tất cả các bà mẹ. Mẹ là Mẹ của Giáo-hội luôn mãi.
Do đó, lễ sinh nhật Đức Mẹ là một lễ hy vọng hướng đến việc canh tân Giáo-hội. Như Đức Hồng y Decourtray từng nói: “Giáo-hội phải tìm tuổi xanh của mình, bằng cách tìm cách gặp lại Mẹ mình”. Trong nỗ lực Phúc-âm hóa mới, việc làm đó đặc biệt cần thiết.
Thánh-bộ Nghi-lễ đã nêu lên một loạt những gợi ý thực tiễn và bổ ích giúp cho việc Mừng Năm Thánh Mẫu mang lại nhiều kết quả nơi các Giáohội địa phương. Trong “ Các hướng dẫn và đề nghị mừng năm Thánh Mẫu ” (Orientamenti e proposte per l’anno Mariano), thánh bộ lưu ý đến bốn lễ mừng kính Đức Maria đang được phổ biến trong việc sùng kính của dân chúng. Trong những lễ cần phải tôn vinh lại, thánh bộ liên hệ đã nêu lên lễ Sinh nhật Đức Maria.
Thật vậy, tôi nghĩ là lễ Sinh nhật Đức Maria không được Kitô hữu lưu ý đúng mức. Lễ ấy qua đi không ai hay biết, hoặc cũng vì nó được xếp vào phụng vụ của một tuần lễ thường, hoặc vì bị các lễ trọng khác che mờ.
Sinh nhật Đức Maria đáng được Kitô hữu mến chuộng vì lễ ấy nhắc lại ơn huệ duy nhất là ơn vô-nhiễm nguyên tội, đánh dấu Đấng sẽ làm Mẹ Đấng Cứu-độ được sinh ra.
Dân chúng sùng mộ muốn chiêm ngắm Chúa Giêsu trong máng cỏ Giáng sinh; nhưng không lưu ý đến nôi của Maria, như muốn để niềm vui nầy thành niềm vui riêng tư của Thánh Gioakim và Thánh Anna.
Tại sao chúng ta không hiệp thông vào nỗi vui mừng ấy một cách nồng nhiệt hơn? Hãy mừng vui khi Mẹ chúng ta sinh ra: trong lúc thế giới phổ biến ngày càng rộng rãi “Ngày lễ các bà mẹ”, Kitô hữu chúng ta cũng nên mừng lễ sinh nhật của Mẹ chúng ta, Đấng đã giúp chúng ta được sinh ra trong ơn Cứu-độ, đặc biệt là trong khung cảnh gia đình chúng ta.
Chúng ta đừng bao giờ quên rằng Chúa Giêsu là Đấng Cứu-độ duy nhất, nhưng tại sao lại quên mừng mầu nhiệm dọn đường và chuẩn bị cho ơn Cứu-độ đó? Thánh Gioan Damascène hân hoan mời gọi thế nầy: 
“Tất cả anh chị em hãy đến, hãy hân hoan mừng ngày sinh nhật, hãy vui niềm vui của toàn thế giới! Hôm nay, từ bản tính phàm trần, một trời mới đã được tạo thành ở trên trần thế. Hôm nay là khởi đầu ơn Cứu-độ cho nhân trần”. 
Phụng vụ ngày nay cho chúng ta hay Đức Maria “đã mang đến nguồn hy vọng và bình minh ơn Cứu-độ cho trần thế”.
Khó mà thấy được cảnh trí nào của thiên nhiên gây xúc động hơn là giây phút đến trước lúc mặt trời mọc. Rạng đông cống hiến một luồng sáng và hơi ấm toả dần trên cảnh vật. Chào đón ngày sinh nhật Mẹ là đã nhìn nhận rạng đông của ngày Cứu độ là Chúa Giêsu. Chào đón Maria trong buổi Truyền tin là đã nhận Chúa Giêsu, mặt trời mang  sự sống cho chúng ta.
Phụng vụ của lễ chế Byzantine, rất lưu ý đến lễ Sinh nhật Đức Maria, ca hát rằng:
“Ngày nầy là bước đầu niềm vui cho mọi người. Trong ngày  nầy các luồng gió báo tin cứu-độ bắt đầu thổi”.
Chúng ta cũng đón chào ngọn gió đầu Mùa Xuân của ơn phúc trong ngày Sinh nhật Mẹ.
 Đức Giáo-hoàng Gioan-Phaolô II đã viết thư cho tôi trong ngày 8.10.1988, khích lệ nhóm FIAT trong sứ mệnh vận động mừng lễ Sinh nhật Đức Mẹ như sau:
“Tôi xin chân thành cám ơn bức thư đề ngày 19.8 vừa qua, và tỏ bày niềm vui của tôi đối với sáng kiến tốt đẹp của Hồng y và của nhóm FIAT nhằm giúp các gia đình Kitô hữu và tín hữu nhiều nước biết nuôi dưỡng tinh thần và ơn ích của Năm Thánh Mẫu 1987-1988, đặc biệt mừng lễ Sinh nhật Trinh nữ Maria một cách sốt sắng; “Mẹ là Đấng mang đến nguồn hy vọng và bình minh ơn cứu-độ cho nhân trần”.
Xin Mẹ Rất thánh của Chúa Kitô Đấng Cứu chuộc hỗ trợ ngài trong nỗ lực tông đồ của ngài!
Tôi thành tâm chúc lành cho ngài!

[1] Một mẫu tượng giấy có hình sinh nhật Đức Mẹ kèm theo lời chú thích và bài hát do Hội FIAT phổ biến


Tác giả:  Gs. Nguyễn Đăng Trúc (chuyển ngữ)
Nguồn: http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=home&v=detail&ia=10060

       KINH TIN KÍNH










 
KINH TIN KÍNH
SINH BỞI ĐỨC TRINH NỮ
Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai. Sinh bởi Bà Maria đồng trinh. Chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đinh trên cây Thánh Giá, chết và táng xác.

Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi. Người đã từ trời xuống thế. Bởi phép Chúa Thánh Thần Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria và đã làm người. Vì chúng tôi người chịu đóng đinh vào thập giá dưới thời Phongxiô Philatô, Người chịu khổ hình và mai táng.

Lch SỬ
Cho đến đây, Kinh Tin Kính nói về những mầu nhiệm cao cả, siêu việt, thuộc lãnh vực vô hình. Bây giờ tín biểu quay về phía lịch sử để tín hữu tuyên xưng lòng tin vào những sự kiện cụ thể đã xảy ra tại một nơi, vào một lúc. Đặc tính của Kitô giáo cốt tại điểm này: tin vào một Thượng Đế đã trở nên người phàm; các tín điều kitô giáo không dựa vào những lý lẽ tinh tế, nhưng dựa vào những biến cố cụ thể, mà bất cứ ai cũng có thể kiểm chứng. Đức Chúa Trời để tạo vật là chúng ta ‘cứu xét’ về Người.
Cho đến thế kỷ 4, tín biểu dùng công thức này: natus de Spiritu Sancto ex Maria Virgine, tức “sinh bởi Thánh Thần từ Đức Maria đồng trinh,” rồi sau đó chuyển qua công thức đang dùng hiện nay với mục đích nêu rõ hơn vai trò của Thần Khí và của Đức Maria: trước hết là tác động của Thiên Chúa, rồi đến việc hợp tác của tạo vật. Tín biểu Nixê-Côngxtăntinốp chỉ nói thêm lý do cứu độ: “Vì chúng tôi” và dùng một thuật ngữ kitô học: “Đã nhập thể”.
Như đã lưu ý trước đây, Kinh Tin Kính vắn tắt nêu lên những điều Phúc âm trình thuật dài rộng hơn. Thật sự, công thức tín biểu dùng, chỉ nêu hai cực của cuộc đời Đức Giêsu: thụ thai và chết; còn những biến cố trong đời Ngài thì tín hữu đã biết rồi. Có kẻ phàn nàn cho là vì dùng công thức ngắn như vậy nên đã bỏ sót quá nhiều điều; chắc hẳn, để làm quen với nhân vật lịch sử Giêsu Nadarét thì cần phải biết những chi tiết về đời Ngài càng nhiều càng tốt; nhưng đó là nhiệm vụ của các người giải thích tín biểu. Bản tuyên xưng đức tin tất phải ngắn, như các tông đồ đã cho thấy. Lúc các ngài thuyết giảng thì chỉ nhắc đến những điểm then chốt, như Phêrô làm trong ngày ngũ tuần: “Đức Giêsu Nadarét là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Ngài, Thiên Chúa đã cho Ngài làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em; chính anh em biết điều đó. Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Ngài vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại... Về điều này tất cả chúng tôi xin làm chứng” (Cv 2:22-32). Đó là kérygma, “lời rao giảng” tức nội dung cơ bản của sứ điệp Tin mừng.
Về Đức Giêsu, có thể biết được chắc chắn nhiều điều. Nguồn liệu gốc không chỉ là bốn Phúc âm mà còn một số tác phẩm khác ngoài Kitô giáo. Hai sử gia Rôma là Tacitus († 120) và Suetonius († 138) đã biết “tên Kitô” bị quan Pilatô xử quyết trên một thập tự. Sử gia Do thái Giôsêphô († 100) đã ám chỉ về Đức Giêsu, và cuốn Talmud Do thái cũng ghi là “tên Giêsu” bị đóng đinh vào thập giá. Sự kiện này đã diễn ra rất có thể là vào ngày mùng 7 tháng 4 năm 30. Là một biến cố chắc chắn việc Đức Giêsu chịu phép rửa từ tay Gioan Tẩy giả, vì các môn đồ của Chúa phục sinh chẳng có thể bịa ra chuyện ấy, nhất là vào một thời đang tranh luận với các môn đồ của Gioan; quả vậy, các môn đồ của Gioan Tẩy giả giữ lập trường cho rằng Gioan cao trọng hơn Đức Giêsu vì lẽ Gioan ban phép rửa cho Đức Giêsu; thế nên, nếu biến cố ấy được ghi lại trong Phúc âm thì chính là vì đã thật sự xảy ra như vậy. Cứ lý luận như thế thì cũng biết được chắc chắn Đức Giêsu là người Nadarét, vì ấp ấy chẳng có tiếng tăm gì. Ngài bị một môn đồ trong nhóm thân cận nhất phản bội cũng là một sự việc chắc chắn. Tên mẹ Ngài là Maria cũng là điều chắc chắn, và cũng là sự kiện chắc chắn: Ngài là con nhà nghèo. Nói chung, các sử gia chấp nhận Đức Giêsu đã từng là một rabbi, thầy giảng dạy, và đã giảng dạy một giáo thuyết mới lạ cũng như đã làm những phép thần diệu, mà khi ấy có nhiều phù thủy hoặc thánh nhân chủ trương mình cũng làm nổi. Rồi còn có nhiều biến cố khác được bốn Phúc âm ghi lại, với mức độ xác suất – nếu không nói là xác thực – cao, xét theo tiêu chuẩn sử học, đặc biệt là bữa tiệc ly trước khi Ngài đi vào cuộc tử nạn. Đành rằng các Phúc âm không phải là những cuốn tiểu sử viết về Đức Giêsu; hơn nữa, phương pháp viết sử thời xưa không như hiện nay; dù vậy, không thể phủ nhận được sự kiện những việc làm và giáo lý của Ngài ăn khớp với hoàn cảnh văn hóa và lịch sử thời bấy giớ, ít là một cách tổng quát. Dù sao, đối vói đức tin kitô, bản thân Đức Giêsu quan trọng hơn những gì được kể lại về lời Ngài nói, về việc Ngài làm.

Nhập Thể
Trọng tâm của công thức đang bàn là mầu nhiệm Nhập thể, tức sự kiện Con Một của Thiên Chúa trở nên con của Đức Maria. Đó là một biến cố cụ thể, gồm hai khía cạnh: hiện tượng học và thần học. Đối tượng của đức tin là khía cạnh thần học; dù dễ phân biệt giữa hai khía cạnh, nhưng đôi khi khó mà tách biệt. Uyên nguyên của đức tin là mạc khải từ Thiên Chúa; nguồn liệu về biến cố là các Phúc âm; vấn đề là bản văn ấy làm chứng cho cả hai, và vì thế có thể đọc với con mắt thế trần hay là với con mắt đức tin: chưa chắc hai cách đọc ấy nhận ra cùng một điều. Thế nên, điều lòng tin nhất quyết khẳng định, sử gia có thể có lý để nghi ngờ.
Thử nhìn Phúc âm với con mắt “trung lập” xem Đức Giêsu đã sống như thế nào. Trước hết, theo Luca 2:1, Ngài sinh ra dưới triều đại hoàng đế Rôma là Augustus (n. 29 tr. cn đến n. 14 cn) và, theo Mátthêu 2:1, vào thời vua Hêrôđê trì vị xứ Giuđêa; Hêrôđê (cha) từ trần năm 4 tr. cn. Vì thế, hẳn Đức Giêsu đã sinh ra vào khoảng năm 5 hay 6 trước công nguyên. Chào đời ở đâu? Phúc âm Mátthêu và Luca nói là tại Bêlem; nhưng vì tiếp đó tác giả ghi thêm: đó là để ứng nghiệm lời của tiên tri Mikha, nên có người nghi ngờ là Mátthêu đã bịa chuyện để cho phù hợp với lời tiên tri. Tuy nhiên, Phúc âm Gioan 7:42 cũng ám chỉ đến Bêlem, và biến cố được rút ra từ một truyền thống độc lập chỉ gặp thấy ở trong Mt và Lc, cho nên rất có thể làng ấy thật là sinh quán của Đức Giêsu.
Như đã nói, chắc là Đức Giêsu sinh trưởng tại làng Nadarét. Lc 2:39 chỉ thuật giản dị rằng khi ông Giuse và bà Maria “đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nadarét, miền Galilêa”; Mátthêu kể chuyện với nhiều chi tiết phức tạp hơn về các nhà chiêm tinh đến bái lạy Hài Nhi Giêsu, rồi vua Hêrôđê muốn giết Ngài và cha mẹ phải trốn sang Aicập; Hêrôđê chết rồi các ngài mới trở về Nadarét. Sau đó, suốt bao nhiêu năm lịch sử Phúc âm không cho biết thêm gì. Còn các ngụy thư thì kể không thiếu chi những chuyện hão huyền về Hài Nhi Giêsu, nhưng đó chỉ là tiểu thuyết. Thánh Luca ghi lại biến cố Đức Giêsu mười hai tuổi ở lại trong đền thờ Giêrusalem, đàm đạo với các thầy thông luật mà cha mẹ không hay biết... Không có tài liệu nào khác nói về biến cố này.
Sau đó, các Phúc âm nhất lãm, tức là Máccô, Mátthêu và Luca, đều đồng ý về một sự kiện quyết định: nhân vật Gioan Tẩy Giả xuất hiện ở Paléttin, rao giảng theo kiểu các ngôn sứ thời xưa và Đức Giêsu đến để Gioan làm phép rửa cho. Tiếp đến, Đức Giêsu khởi sự rao giảng Tin mừng. Thánh Luca 3:1 tính ngày tháng rất tỉ mỉ: đó là năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô, cũng là năm thứ 782 kể từ khi Rôma được sáng lập, tức là năm 28 hay 29 cn. Lc 3:23 cho biết khi ấy Đức Giêsu trạc ba mươi tuổi, mà không biết ngài tính tuổi theo lịch hay theo Luật (Luật đòi hỏi phải đủ 30 tuổi mới được phép hành dịch); vì thế, nhiều sử gia nghĩ là lúc ấy Đức Giêsu trạc 33 hoặc 35 tuổi. “Đời sống công khai” đã kéo dài bao lâu? Theo các Phúc âm nhất lãm mà tính, xem ra chưa đầy một năm; nhưng, như thế thì dường như ngắn quá, và có thể Phúc âm theo thánh Gioan giúp cho tính đúng hơn: Phúc âm thứ tư thuật lại Đức Giêsu dự lễ vượt qua tại Giêrusalem ba lần, nghĩa là Ngài đã sinh hoạt chừng ba năm trong vai một ngôn sứ hoặc thầy dạy, theo cách suy nghĩ của dân chúng. Ngài làm cái gì? Phêrô trình bày tóm tắt cho sĩ quan Rôma là Cornêliô như sau:
Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giuđêa, bắt đầu từ miền Galilêa, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng. Quý vị biết rõ: Đức Giêsu xuất thân từ Nadarét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Ngài. Đi tới đâu là Ngài thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Ngài. Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Ngài đã làm trong cả vùng dân Do thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Ngài lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Ngài chỗi dậy, và cho Ngài xuất hiện tỏ tường...” (Cv 10:37-40).
Các biến cố ấy dư luận nghe trình thuật mà không mảy may phủ nhận vì đã xảy ra công khai. Vai trò của Gioan Tẩy giả có vẻ quan trọng, không những là vì ban phép rửa cho Đức Giêsu mà còn là vì đóng vai làm “tiếng gọi” khiến Đức Giêsu rời Nadarét để khởi sự một giai đoạn mới. Có kẻ nghĩ: ban đầu, Đức Giêsu là môn đồ của Gioan, rồi khi Gioan bị tiểu vương Hêrôđê bắt giam, Đức Giêsu mới tự lập trở về Galilêa và bắt đầu rao giảng Tin mừng (x. Mc 1:14). “Tin mừng” là gì? Là loan báo Nước Trời đã đến gần; lại nữa, “Nước Trời” có nghĩa là những lời Thiên Chúa đã hứa qua các tiên tri xưa, và cũng là niềm đợi trông của Ítraen, một niềm đợi trông sắp thành hiện thực; hơn nữa, chính Đức Giêsu là hiện thân của Nước ấy: đây là cốt lõi của tác vụ Đức Giêsu. Phêrô làm chứng về sự việc Đức Giêsu làm phúc, đặc biệt là chữa lành và trừ quỷ – theo cách hiểu thời ấy, hai việc này không khác chi nhau mấy. Giáo thuyết Ngài giảng chẳng mới lạ đến độ không hòa đồng được với Do thái giáo; chỉ có việc là bản thân Ngài không thể nào thu gọn được vào trong giới hạn nhỏ hẹp của tôn giáo ấy. Kiểu giảng dạy đặc thù của Ngài là kể chuyện theo dạng ẩn dụ, để trình bày, phần nào có thể, về mầu nhiệm Nước Trời. Như các thầy rabbi khác, Đức Giêsu cũng thu nạp môn đồ; tuy nhiên, với hai đặc nét: thứ nhất, các môn đồ này không học hành gì nhiều (có thể có người không biết chữ); mãi mãi họ sẽ là môn đồ của Ngài; và thứ hai, Ngài thiết lập một nhóm 12, tượng trưng cho 12 chi tộc Ítraen. Tầm trọng yếu của việc này họ chỉ lãnh hội được sau biến cố phục sinh. Rốt cuộc, vì những sự thật cần chấp nhận về bản thân mình và vì ảnh hưởng mà hoạt động của Ngài tạo được giữa dân chúng, giới cầm quyền đã quyết định giết Ngài. Lịch sử chẳng có thể biết thêm gì nhiều hơn ngoài những chi tiết đó.
Bây giờ, thử nhìn các tài liệu Tân Ước với con mắt đức tin. Ánh sáng đức tin vén mở ý nghĩa của lịch sử và giúp cho đi xa hơn trong nỗ lực nhận thức những sự kiện siêu lịch sử; những điều Kitô giáo gọi là “mầu nhiệm Đức Kitô” cũng vẫn mang một chiều kích lịch sử. Thánh Gioan cho biết: “Lúc khởi nguyên đã có Lời, và Lời ở nơi Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa...”; rồi trình bày tiếp: “Và Lời đã thành xác phàm, và đã lưu trú nơi chúng tôi, và chúng tôi đã được ngắm vinh quang của Ngài, vinh quang như của Con một tự nơi Cha, tràn đầy ơn nghĩa và sự thật” (Ga 1:1.14). Nói cách khác: Con Một Thiên Chúa, cũng gọi là Ngôi Lời hoặc Ngôi Hai, đã trở thành con người như mọi người; và tác giả làm chứng cho sự thật ấy. Trong một cách thức cụ thể hơn, hai Phúc âm Mátthêu và Luca kể lại cho thấy việc này đã xảy ra như thế nào.
Thánh Mátthêu ghi: “Bà Maria, mẹ Ngài, đã đính hôn với ông Giuse; nhưng trước khi hai ông bà chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1:18). Dựa vào câu này Kinh Tin Kính tuyên xưng:“Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Ngài xuống thai...” Đó là phần của Thiên Chúa. Và:“Sinh bởi bà Maria đồng trinh”... là phần của tạo vật. Thánh Luca kể chuyện với nhiều chi tiết hơn: khi cô Maria ở ấp Nadarét, đã đính hôn với cậu Giuse, thì thiên thần Gabriel được Thiên Chúa sai đến đưa tin là cô sẽ thụ thai; cô bèn tiết lộ cho biết mình đã nhận định và quyết định giữ mình đồng trinh... Không sao – thiên thần trả lời – vì Thần Khí Thiên Chúa sẽ ngự xuống trên cô và con cô sinh ra “sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” Bối rối, nhưng tin tưởng, Maria khiêm tốn chấp nhận, xin vâng theo ý của Đấng Tối cao, và tự xưng là nữ tỳ của Chúa (x. Lc 1:26-38). Suy tư về trình thuật này, thần học nói đến vấn đề “trinh thai” tức việc trinh nữ Maria thụ thai mà vẫn đồng trinh. Phúc âm Mátthêu nói rõ Giuse không phải là cha ruột của Đức Giêsu. Việc ấy xảy ra đúng như lời tiên tri Isaia (thế kỷ 8 tr.cn) báo trước rằng: “Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là ‘Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta’.” (Mt 1:19-25). Nên lưu ý: Thánh Thần không phải là cha của Đức Giêsu! Thần Khí được gọi là “ngón tay của Chúa Cha” để tác thành những kỳ công trong lịch sử cứu độ. Đấng, “sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời,” nhờ Thần Khí tác động, đã “sinh bởi bà Maria đồng trinh” trong thời gian.
Kitô giáo Chính thống đã không ngừng tuyên xưng chân lý này. Đức Giêsu đã sinh ra trong một cách thức đặc thù: không có cha sinh lý. Vì bản ngã (person) của Đức Giêsu-Kitô chỉ là một và Cha sinh ra bản ngã ấy là Chúa Cha, nên không thể có cha nào khác; quan hệ giữa cha-con là tương quan giữa hai bản ngã chứ không phải giữa hai bản tính, cho nên một người con không thể có hai người cha. Mầu nhiệm “trinh thai” là mầu nhiệm Đức Kitô, và chỉ trong một cách thể phụ thuộc là mầu nhiệm Đức Maria: nguồn gốc nguyên thủy của Đức Kitô là vĩnh viễn tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Sách Giáo Lý giải thích:
“Con Một của Chúa Cha ngay từ khi tượng thai làm người trong cung lòng của Đức Trinh Nữ Maria, đã là “Kitô”, nghĩa là Đấng được Thánh Thần xức dầu (x. Mt 1:20; Lc 1:35), cho dù Ngài chỉ tỏ mình từng bước cho các mục đồng (x. Lc 2:8-20), các đạo sĩ (x. Mt 2:1-12), cho Gioan Tẩy giả (x. Ga 1:31-34), cho các môn đệ (x. Ga 2:11). Như vậy, trọn cuộc đời của Đức Kitô tỏ cho thấy ‘Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Ngài như thế nào’.” (số 486).
Tuy nhiên, đức tin cũng quả quyết rằng Đức Giêsu là con người toàn vẹn như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi. Trước mắt thiên hạ, Ngài xuất hiện như là con của ông Giuse, ngài chịu mệt, chịu khổ, ăn uống, đói khát, phải học nghề... Như công đồng Vaticanô II minh họa: Ngài “đã làm việc với bàn tay con người, suy nghĩ với trí khôn con người, hoạt động với ý chí con người, yêu mến với con tim con người” (GS 22b). “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, chỉ trừ tội lỗi” (Dt 4: 15). Trong vấn đề này, các phe phái lạc giáo gốc ngộ giáo đã ngộ nhận để sẵn sàng tin Ngài là thần linh, và từ chối không tin Ngài là con người thật! Vì thế, việc nhập thể của Ngôi Lời khác với avatar trong Ấn độ giáo; tín đồ Ấn giáo tin sự việc các thần thiêng (như Krishna chẳng hạn) nhập thế giống như con người, nhưng thật sự không phải là con người. Sở dĩ hai Phúc âm Mátthêu và Luca ghi gia phả Đức Giêsu là để tỏ rõ Ngài là con người thật: Mt nêu cho biết Ngài là con của Đavít và cháu của Abraham; còn Lc thì kể Ngài là con của Ađam. Theo Mt, Đức Giêsu là người Do thái; theo Lc, là đơn thuần con người; cả hai nhấn mạnh đến tính liên đới chặt chẽ của Đấng nhập thể với loài người: đâu phải hết các tổ tiên của Đức Giêsu đều là lành thánh, và cũng không phải hết cả đều là người Do thái, vì có người thuộc dân ngoại như bà Bethseba, như bà Rút, v.v... qua đó mới thấy rõ mối liên đới Ngài có với kẻ tội lỗi và với dân ngoại. Tuy nhiên, Kitô giáo sơ khai đã thấy xuất hiện lạc giáo ảo thân thuyết, là lạc giáo phủ nhận giá trị tích cực của xác thể và vật chất; họ chỉ muốn Đức Giêsu chỉ nhận lấy phần tinh thần tức linh hồn, còn phần xác thể thì không, bởi nó xấu xa không xứng đáng với Ngôi Lời; đó là lý do tại sao thánh Gioan thấy cần nhấn mạnh đến ý nghĩa của “xác thịt”: “Ngôi Lời trở thành xác thịt” (Ga 1:14), “phàm thần khí nào (tức quan niệm nào) tuyên xưng Đức Giêsu-Kitô đã đến trong xác thịt, thì thuộc về Thiên Chúa” ... còn ai phủ nhận xác thịt của Chúa Con là “phản-kitô” (1Ga 4:2-3); ngoài ra, Phúc âm còn ghi lại một câu nghe qua rất chướng tai: “Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình” (Ga 6:54tt). Bí tích Thánh Thể được gọi là “mầu nhiệm đức tin” vì là điều khó tin nhất trong Kitô giáo; nhưng đó là nguồn sống cho chúng ta. Vì thế, xưa ông Téctullianô đã đưa ra lời nhận định sâu sắc: “Xác thịt là trục cứu độ.”

Trinh N Maria
Đức Maria chỉ là đối tượng gián tiếp của Kinh Tin Kính; Đức Maria được gì thì đó là nhờ Con mình. Không do dự, lịch sử xác nhận ngài là người mẹ đã sinh hạ Đức Giêsu. Về gia đình họ hàng của Đức Maria, không được biết gì nhiều; các ngụy thư cho rằng cha tên là Gioakim và mẹ là Anna, và cả hai thuộc chi tộc Đavít; có lẽ là đúng. Quê quán ở đâu và sinh sống thế nào cũng không biết. Ngài kết hôn với Giuse, dòng dõi Đavít, có hộ khẩu ở Nadarét, miền bắc Paléttin, và là người trung lưu vì làm nghề độc lập. Vì thế, họ có thể cho Giêsu, con mình, đi học; ở Nadarét, Đức Giêsu “vào hội đường như Ngài vẫn quen làm trong ngày sabát, và đứng lên đọc Sách Thánh” (Lc 4:16). Sau khi người con một mất đi, Maria ở với môn đồ Gioan (x. Ga 19:27). Sau đó, lịch sử không còn biết gì thêm; truyền thống nghĩ là ngài theo Gioan tới Êphêsô và qua đời tại đó.
Con mắt đức tin cho thấy Đức Maria là “người có phúc hơn mọi người nữ”; trước hết là vì người đã tin, như bà Êlisabét nhận thấy (x. Lc 1:45), và thứ đến, vì là mẹ Đức Kitô. Thánh Âugutinô hiểu rằng Đức Maria có phúc vì đã ấp ủ niềm tin hơn là vì đã cưu mang Đức Kitô. Là mẹ đồng trinh nhờ Thần Khí Thiên Chúa, và đó là dấu chỉ về siêu việt tính của con mình. Hội Thánh nhận thấy việc xảy ra như thế quả đã làm cho ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia 7:11, như Phúc âm Mátthêu lưu ý. Dù trí khôn không hiểu, lòng tin vẫn hân hoan tiếp nhận mầu nhiệm. Thánh Inhã Antiôkia miêu tả: “Giữa cảnh vực lặng thinh sâu thẳm trong Thiên Chúa, ba mầu nhiệm cao cả đã vang lên, tuy vẫn ẩn giấu trước mắt các hạng quyền thế trần gian: bà Maria đồng trinh mà thụ thai, sinh đẻ mà đồng trinh, và Thiên Chúa mà lại chết” (Ad Ephes. 19.1); Nadarét thì hẻo lánh, đêm Bêlem thì tẻ lạnh, núi Canvê đầy tăm tối ... mấy ai lưu tâm đến ngài.
Truyền thống Kitô giáo trân trọng dành nhiều tước hiệu cho Đức Maria. Với lòng con thảo, người công giáo bên Đông cũng như bên Tây phương gọi ngài là mẹ, là nữ vương, là sao biển, là nơi nương tựa v.v., và nhất là Mẹ Thiên Chúa. Công đồng Êphêsô (năm 431) gọi ngài là theotókos (trong tiếng Hy lạp) hoặc dei genitrix (trong tiếng La tinh) nghĩa là “Mẹ Thiên Chúa”; danh hiệu kinh ngạc này  bênh vực và nói lên thiên tính của Đức Giêsu. Thời ấy lạc giáo Ariô chủ trương Đức Giêsu là Đấng Kitô, nhưng không phải là Thiên Chúa; vì thế phải gọi Đức Maria là “Mẹ Đức Kitô” chứ không phải là “Mẹ Thiên Chúa”. Với lập trường mạnh mẽ của thượng phụ Alêxănđria, thánh Xyrillô, công đồng nhất tâm xác quyết rằng: Đức Kitô là Thiên Chúa, mà Đức Maria là mẹ của Đức Kitô, cho nên Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Dĩ nhiên Đức Maria không phải là mẹ của thiên tính! Là mẹ của Đức Kitô về mặt nhân tính, nhưng Ngôi Hai đã nhận lấy nhân tính để trở thành Đức Giêsu, là Thiên Chúa và là con của Đức Maria... Quan hệ mẹ-con là theo bản ngã (là Ngôi Hai nơi Đức Giêsu). Thánh Xyrillô giải thích:
“Kinh Thánh không nói là Ngôi Lời nhận lấy một bản ngã loài người, mà nói là ‘Ngài trở thành xác thịt’ (Ga 1:14). Đó có nghĩa là Ngài ‘có chung với chúng ta cùng một huyết nhục’ (x. Dt 2:14). Ngài lấy thân thể ta làm của mình và sinh ra như con người bởi một phụ nữ (x. Gl 4:4), nhưng không vì thế Ngài không còn là Thiên Chúa và không còn sinh bởi Đức Chúa Cha. Khi nhận lấy xác phàm Ngài vẫn còn nguyên là Ngài! Vì thế, các thánh phụ công đồng Nixê không ngần ngại gọi thánh Trinh Nữ là mẹ Thiên Chúa... vì Đức Giêsu bởi ngài sinh ra, nhưng không phải là thuần túy con người. Do đó, nếu Trinh Nữ là mẹ Đức Kitô thì cũng phải là mẹ Thiên Chúa, và nếu ngài không phải là mẹ Thiên Chúa thì cũng không phải là mẹ Đức Kitô... Thế nên, ai đã sinh hạ Chúa, thì tất nhiên là mẹ Thiên Chúa.”
Người công giáo khắp nơi đều gọi Đức Maria là mẹ mình. Đức Kitô từ trên thập giá đã chỉ về môn đồ và nói với Mẹ: “Đây là con bà” và từ lúc ấy các môn đồ Đức Giêsu đều coi Đức Maria là mẹ riêng của mình. Trong toàn thể Giáo hội, đâu đâu cũng nghe vang lên lời chào: “Lạy Mẹ Maria...” vang lên những lời kinh ca tụng: “Đức Mẹ là Mẹ Hội Thánh, Đức Mẹ thông ơn Thiên Chúa, Đức Mẹ cực thanh cực tịnh, v.v.” Thần học lý luận rằng nếu Đức Maria là mẹ của Ðức Kitô là Đầu của nhiệm thể, và các kitô hữu là chi thể của nhiệm thể ấy, thì ắt Đức Maria cũng là mẹ của thân thể và của từng chi thể, bởi chính là mẹ của Đầu. Công đồng Vaticanô II gọi Đức Maria “mẹ của nhân loại” (LG 54); lý do là vì Đức Kitô, con ngài, là Ađam (tổ tiên) mới, và vì “Đức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Đấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Bởi vậy, trên bình diện ân sủng, ngài thật là mẹ chúng ta” (LG 61). Bây giờ, Mẹ ở trên trời không ngừng chăm sóc cho con cái ở dưới đất, cũng “vì thế trong Giáo hội, Đức Nữ Trinh được kêu cầu qua các tước hiệu: Trạng sư, Vị bảo trợ, Đấng Phù hộ và Đấng Trung gian” (LG 62), dĩ nhiên là bao giờ cũng phải hiểu theo một phụ tùy so với Đức Kitô. Trong hai thế kỷ 19 và 20, Giáo hội đã minh định hai tín điều về Đức Maria: tín điều Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội và tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời. “Trinh nữ Maria được công nhận và tôn kính là Mẹ đích thực của Thiên Chúa và của Đấng Cứu chuộc... Mẹ cũng thật sự là ‘Mẹ các chi thể Chúa Kitô’... vì Mẹ đã cộng tác bằng đức ái của mình vào việc sinh ra các tín hữu trong Hội Thánh, là những chi thể của Đức Kitô là Đầu. Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô, là Mẹ của Hội Thánh” (x. Sách Giáo Lý, số 963).
Trong kế hoạch cứu độ, Đức Maria đã hợp tác với Ðức Kitô một cách đặc thù, kể từ khi thưa “xin vâng” và thụ thai Đấng Cứu Thế. Ngài là “kẻ đã tin” làm mẫu gương cho các tín hữu. Ngài đã hân hoan hát lên: “Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc 1:48), và đó chính là điều Giáo hội không ngớt tưởng niệm trong phụng vụ và trong các hình thức sùng kính Đúc Mẹ; đó cũng là điều các nghệ sĩ mọi thời cố đem hết tài năng của mình mà biểu hiện, khiến Mẹ Maria là phụ nữ có nhiều hình ảnh nhất trong lịch sử loài người. Giữa lòng Hội Thánh, Mẹ-Con mãi mãi ở bên nhau.

LÝ DO NHẬP THỂ
Lý do nhập thể được tín biểu Nixê trình giải như sau:“Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tội...” Câu này là tiếng vọng của cụm từ Hy lạp hyper hemon, “vì chúng ta” mà Tân Ước nhắc lại nhiều lần bằng nhiều cách: “để cho thế gian được sống” (Ga 6:51), “Đức Kitô chết vì chúng ta... người tội lỗi” (Rm 5:6-8), “...vì tội lỗi chúng ta” (1Cr 15:3), “...vì tôi” (Gl 2:20), “...chịu khổ vì chúng ta” (1Pr 2:21), v.v.  Loài người cần được cứu rỗi vì đang nằm trong tình trạng tội lỗi, mà sức lực loài người thì không sao cứu chữa nổi; sống xa lạ với Thiên Chúa, loài người chẳng thể nào tự nâng lên cho tới Trời được. Cần phải có ai từ Trời xuống để mà nâng chúng ta lên. Nhưng, không phải là ai cả – bởi tuyệt đối không một ai làm nổi – mà là chính Thiên Chúa đã làm công việc này một cách hết sức lạ lùng: chính Người xuống đặt mình trên cùng một bình diện với con người, trở nên “đồng bào” của chúng ta; đó là điều thánh Lêô Cả gọi là “cuộc trao đổi kỳ diệu”: lấy của ta và cho ta lấy của Người, trở nên Con Người để cho con người trở nên con cái Thiên Chúa, mặc lấy bản tính loài người để cho con người – theo lời tông đồ Phêrô – “được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2Pr 1:4). Các giáo phụ nhấn mạnh giải thích rằng chẳng phải để tìm lợi ích chi nơi trần thế mà Ngôi Lời nhập thể, bởi vì “nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành” và bởi vì Ngài vốn là chủ của mọi sự, nhưng chỉ vì yêu thương chúng ta nên Ngài mới sinh ra làm người. Thánh Gioan nêu lên lý do này: “Thiên Chúa yêu thưong chúng ta và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội, vì tội lỗi chúng ta” (1Ga 4:10), và chính “Đức Giêsu đã xuất hiện để xóa bỏ tội lỗi” chúng ta (1Ga 3:5). Kinh Thánh nhiều lần nêu bật chân lý này: tự nó, tôn giáo không có khả năng đạt được mục tiêu ấy; vì thế, Thư Do thái vén mở cho thấy rằng: “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ Con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này Con đây, Con xin đến để thực thi ý Ngài... Theo ý đó, chúng ta được thánh hóa nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10:5-10). Vì thế, Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ, như dân Samaria đã tuyên nhận: “Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Ngài thật là Đấng Cứu Độ trần gian” (Ga 4:42). Thiên Chúa đã đoái thương cứu rỗi con người qua một con người.
Ơn cứu độ có hai mặt: tiêu cực là xóa bỏ tội lỗi, và tích cực là thần hóa (theo nghĩa loại suy, dĩ nhiên); trong thần học, trường phái Phanxicô thường nêu bật khía cạnh tích cực và cho rằng dù không có tội lỗi, Ngôi Hai vẫn nhập thể làm người. Lý do là vì Thiên Chúa là tình yêu và tình yêu cốt ở chỗ tự trao ban chính mình cho người mình thương mến; do đó, Thiên Chúa đã quyết định dựng nên tạo vật có khả năng mở ra đón nhận lòng thương của Người. Thánh Gioan khẳng định Thiên Chúa yêu mến thế gian, và chắc là lòng thương mến này chẳng tùy thuộc vào sự việc loài người có tội hay không có tội! Và vì yêu ta, Chúa đã muốn ở với ta, hơn nữa trở nên một phần tử trong gia đình ta, ngõ hầu chia sẻ với ta (như là với các em) chính mình Người, Cha mình (Cha chúng tôi) và Thánh thần của mình (được thánh hóa). Thư Côlôxê cho biết Đức Giêsu Kitô là trưởng tử mọi loài thọ tạo, trong Ngài Thiên Chúa tạo thành mọi sự, nhờ Ngài và cho Ngài... nghĩa là trước khi có tội Ađam, Chúa Cha đã có kế hoạch ấy rồi, là làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện nơi Ngài, để hoà giải với mình mọi sự, tức là làm cho vạn vật được thông phần vào sự viên mãn ấy (x. Cl 1:1-20). Biểu đạt theo một cách khác, thư Galát viết: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4:4): Chúa Kitô xuống thế để chia sẻ tính chất làm Con của mình, theo ý Chúa Cha. Nơi Đức Giêsu Thiên Chúa muốn loài người gặp được Người, thấy được diện mạo của Người, bắt chước Người. Chính vì thế, công đồng Vaticanô II mới nói là: “Chúa Con đến, được sai do Chúa Cha, Đấng đã tuyển chọn chúng ta nơi Ngài truớc khi tạo dựng vũ trụ và tiền định cho chúng ta làm dưỡng tử, vì Người mong ước cải tạo tất cả trong Chúa Con... Mọi người đều được mời gọi kết hiệp cùng Chúa Kitô như vậy; Ngài là ánh sáng thế gian, và chúng ta phát xuất từ Ngài, sống nhờ Ngài và hướng về Ngài” (LG 3).
Thật ra, lý do sâu xa nhất nằm ở nơi chính bản thân Ðức Kitô. Trong Thiên Chúa Ba Ngôi, Ngôi Con được Chúa Cha sinh ra, và Cha-Con nhiệm xuy Thánh Thần. Trong thế giới tạo vật, việc “sinh ra” ấy trở thành hành động “sai phái”: sứ mạng trong thời gian của Ðức Kitô là phản ảnh của tính chất làm Con trong vĩnh cửu. Tất cả đều khởi sự nơi Cha và trở về với Cha: “Thầy từ Chúa Cha mà đến và Thầy đã thế gian; nay Thầy lại bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha” (Ga 16:28). Chúa Con tự hữu, phi tạo đã nhập thể để làm Con thụ tạo; sống như người Con, chịu vâng phục (x. Ga 6:38-40), lo làm vinh danh cho Cha (x. Ga 17:4) và chia sẻ Thánh thần (x. Ga 16:7). Lẽ dĩ nhiên, tất cả cũng là vì chúng ta: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi thì không ở lại trong bóng tối” (Ga 12:46).

Suy Tư Thần Học
Giáo hội sơ khai đã phải sống qua bốn thế kỷ suy nghĩ và tranh luận, với ba công đồng chung mới tạo ra được một công thức tạm thỏa mãn trí khôn về mầu nhiệm nhập thể. Năm 451, công đồng Canxêđon định tín rằng: “Căn cứ vào giáo huấn của các thánh Giáo phụ, chúng tôi nhất trí dạy phải tuyên xưng rằng chỉ có Một Người Con, là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Ngài toàn vẹn trong thiên tính, cũng như toàn vẹn trong nhân tính, là Thiên Chúa thật và là con người thật... đặc tính của mỗi một trong hai bản tính càng được bảo toàn khi tụ hợp với nhau nơi một ngôi vị và một bản ngã...” (DS 301-302).
Nhập thể là mầu nhiệm cơ bản của Kitô học hữu thể, và là tâm điểm của lịch sử cứu độ; đó là lúc Thiên Chúa trở thành con người. Sách Giáo Lý định nghĩa: “Hội thánh gọi sự kiện Con Thiên Chúa mang lấy bản tính nhân loại để thực hiện trong bản tính ấy việc cứu độ chúng ta, là Nhập thể” (số 461). Muốn hiểu phần nào về mầu nhiệm này, trước hết cần phải lưu ý đến sự hiệp nhất:
Hiệp nhất hay thống nhất trong bản thân Đức Kitô có nghĩa là Ngôi Lời nhập thể là một hữu thể duy nhất. Tuy nhiên, hữu thể duy nhất này gồm có hai yếu tố khác hẳn nhau như Tạo hóa với tạo vật. Đức Kitô không thành một từ hai yếu tố phối kết lẫn với nhau để làm nên một hữu thể thứ ba, song là trong hai yếu tố mãi mãi tồn tại nguyên vẹn và khác nhau. Không phải là hai bản tính trực tiếp hiệp nhất với nhau, nhưng là hiệp nhất qua Ngôi Lời, tức là Ngôi Lời hiệp nhất với hai bản tính, và vì thế hai bản tính hiệp nhất trong Bản ngã của Ngôi Con.
Mầu nhiệm Đức Kitô cốt ở điểm hiệp nhất này. Thuật ngữ dùng để gọi sự hiệp nhất này là “ngôi hiệp” (unio hypostatica), tức hiệp nhất trong ngôi vị. Ý nghĩa là Ngôi Lời vĩnh cửu (và tiên hữu) kết hiệp làm một với một nhân tính toàn vẹn. Thiên Chúa Ba Ngôi là tác giả của việc kết hợp ấy, vì đó là việc làm nên một tạo vật mới; nhưng chỉ một mình Ngôi Hai nhập thể, chứ không phải có cả Ngôi Cha như lạc giáo khổ phụ thuyết nghĩ (x. DS 284); thiên tính cũng không nhập thể. Nhân tính Đức Kitô không có sẵn trước khi được Ngôi Lời mặc lấy, song đã được sáng tạo chính lúc được mặc lấy (ipsa assumptione creatur), như thánh Lêô đã trưng dẫn lời của thánh Âugutinô mà xác định (x. DS 298). Con người Giêsu này không tự hữu, nhưng hiện hữu bởi Ngôi Lời, nghĩa là con người Giêsu tồn tại nhờ sự hiện hữu (existence, act of existing) của Ngôi Con, và như thế, có được một sự hiện hữu hoàn hảo nhất có thể.
Con người cảm nghiệm cá biệt tính và trạng thái duy nhất nơi chính mình như một lãnh vực không thể nào chia sẻ, nhưng đồng thời lại cảm thấy nhu cầu và khynh hướng mở ra cho tha nhân. Càng đóng kín trong mình, con người càng bị giới hạn; còn càng mở ra thì càng triển nở phong phú. Ngôi vị là hữu thể sống trong tình trạng biện chứng ấy. Như vậy, Đức Giêsu vừa đồng nhất mà cũng vừa bất đồng nhất với Chúa Cha: “đồng nhất” vì Ngài tuyệt đối (là Thiên Chúa); “bất đồng nhất” vì Ngài không tuyệt đối (bởi là một tạo vật)! “Được sáng tạo khi được mặc lấy.” Khác với chúng ta, Đức Giêsu không bị giới hạn ở trong chính mình, nên nơi Ngài, khả năng mở con người mình ra cho tha nhân thì vô hạn. Ngài mở ra tới tận Thiên Chúa và tới tận mọi tạo vật: Ngài có khả năng đón nhận mọi người, và trao ban chính mình cho mọi người. Được sinh ra từ Tình yêu tuyệt đối, Ngài chính là tình yêu nhập thể.
Càng đi sâu vào trong mầu nhiệm Đức Kitô, thì càng hiểu được rõ hơn vai trò trung gian của Ngài. Do bởi bản tính, Đức Giêsu đứng “ở giữa” Thiên Chúa và loài người. Ngài là chiếc cầu bắc ngang giữa bờ thụ tạo và bờ phi tạo, giúp cho con người bước qua được vực thẳm hư vô mà đến với Chúa Cha. Nhưng xét cho cùng, Đức Giêsu chỉ có thể được hiểu trong ánh sáng của Tam Vị: tức là qua mầu nhiệm của Chúa Cha và Thần Khí. Từ bấy giờ, Thiên Chúa có một bộ mặt nhân loại. Chúa Kitô thực hiện vai trò trung gian qua “ba nhiệm vụ” là sứ ngôn, tư tế và vua chúa. Như sứ ngôn, Ngài cho ta biết ý Chúa Cha (x. Ga 17:3; Mt 11:27); như tư tế, Ngài đứng bên hữu Thiên Chúa nguyện cầu cho chúng ta (x. Dt 4:14─7:28); như vua chúa, Ngài chi phối lịch sử loài người (x. Ga 18:37; Kh 5:13).
Vậy, về phương diện Cứu độ học, nhập thể có nghĩa là Thiên Chúa đã tham dự vào lịch sử loài người cách cụ thể, cách chủ động, theo cung cách con người. Theo cung cách “cụ thể” nghĩa là đường lối cứu rỗi là đường lối hữu hình, diễn ra trong giới hạn của lịch sử, qua trung gian cụ thể, và – trong thực tế – một thứ trung gian đó là Giáo hội. Sự cần thiết của Giáo hội phát xuất từ điểm nền tảng này. Cũng từ đó mà có “nhiệm cục bí tích,” tức là phương pháp cứu độ dùng vật chất và cử chỉ làm khí cụ cho ân sủng. Bởi Thiên Chúa đã trở thành con người cụ thể (Đức Giêsu Nadarét), nên loài người không thể được cứu độ qua một giáo lý, một số “chân lý vĩnh viễn” trừu tượng hoặc qua một con đường “giác ngộ” nào đó, như lạc giáo ngộ giáo và ảo thân luận chủ trương. Nguồn ơn cứu độ là con người Giêsu. Ảnh hưởng của các lạc giáo ấy vẫn còn dai dẳng lưu thặng ở trong nhiều quan niệm và thói quen đạo đức; chẳng hạn, chỉ lo cứu rỗi “linh hồn” mà khinh bỉ thân xác. Vì Thiên Chúa đã mang lấy toàn bộ lịch sử, nên mọi biến cố trong đời sống đều trở thành nhân tố cứu độ: con người được cứu độ qua việc dấn thân vào giữa lòng xã hội, giữa các biến cố lịch sử, ngay trong thế gian, chứ không cần phải “ra khỏi” thế gian. Đời sống hằng ngày chính là môi trường cứu độ với không biết bao nhiêu giá trị và ân sủng.
Nhưng thể xác không chỉ có thể trở thành khí cụ của ân sủng, lối dẫn về với Thiên Chúa, mà còn có thể làm khí cụ của tội lỗi, trở thành mối nguy tách ta ra khỏi Người. Đức Giêsu phối kết hài hòa trong chính mình các yếu tố cấu tạo mầu nhiệm nhập thể: thần thiêng và nhân loại, xác và hồn, trí thức và lao động, tôn giáo và xã hội, cuộc sống cá nhân và sinh hoạt cộng đoàn. Dùng thân xác để che dấu con người mình không phải là chuyện hiếm có: bộ mặt tử tế che dấu lòng dạ ghen tương, lời che ý, v.v. và như thế đâm ra giả hình, sống khác với sự thật về mình. Bởi Đức Kitô là Ađam mới, nên mọi người đều có được “yếu tố kitô” ở trong mình, nhờ đó có thể hợp nhất hài hòa mình với mình, chữa lành vết thương của tội lỗi nằm sâu trong nhân tính và sống niềm thống nhất nội tâm, sống thật với mình và với mọi tha nhân.
Ngôi Lời nhập thể đã chủ động tham dự vào sinh hoạt xã hội. Như thế, ơn cứu độ không phải là chuyện máy móc, phù phép, mang lại kết quả một cách tự động, nhưng đòi phải mở lòng đón nhận Đức Kitô với một thái độ liên bản vị, ít là cách mặc nhiên nơi anh chị em của Ngài. Và nếu nhập thể là men đang đổi mới vũ trụ, thì con người mới cũng như đất mới, trời mới, sẽ không hình thành được trừ phi các tín hữu kitô biết ra tay dấn thân tích cực hoạt động giữa cuộc sống.
Vaticanô II cho biết rằng: “Qua việc nhập thể, một cách nào đó, Con Thiên Chúa đã kết hợp với tất cả mọi người” (GS 22b). Điều này cũng muốn nói là không ai được cứu độ riêng lẻ một mình, nhưng là với những người khác, vì ơn cứu độ là ơn huệ liên đới. Ngôi Lời nhập thể không chỉ là “Thiên Chúa-ở-với-chúng-ta,” mà còn là “con-người-cho-mọi-người.” Vì Đức Giêsu là quà tặng của lòng Thiên Chúa thương yêu hết thảy mọi người (x. Ga 3:16), nên Ngài tự trao ban chính mình cho mỗi người, mong hòa giải mọi người với Chúa Cha và với nhau, làm cho ơn liên đới ấy trở thành “môi sinh” của nhân loại mới. Vì vậy, nơi tha nhân, người kitô có bổn phận phải nhận cho ra sự hiện diện của chính Đức Giêsu. Trong Đức Kitô tất cả trở thành một.
Về phương diện mạc khải, nhập thể cho thấy Thiên Chúa không đóng khung cô lập trong chính mình, nhưng mở rộng “ra ngoài,” đi vào giữa thế gian. Người toàn năng đến nỗi có thể trở thành tạo vật như con người. Trong con người Giêsu, con người mới biết được Thiên Chúa cách đích thực: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Ngài đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1:18). Cứu độ và mạc khải đi đôi với nhau; đời sống vĩnh cửu là nhận biết và yêu mến Thiên Chúa, nhưng không thể tách biệt được việc nhận biết Cha và việc nhận biết Con (x. Ga 17:3). Thần học hiểu rằng mạc khải là cung cách cứu độ. Ở đây, không có ý ám chỉ đến những lời nói và việc làm của Đức Giêsu nhằm mạc khải Chúa Cha, mà chỉ đơn thuần tập trung chú ý vào chính bản thân của Đấng nhập thể. Đấng Cứu độ là trung gian của Thiên Chúa hiện diện cùng hoạt động giữa và cho loài người. Thế thì, gặp Đức Giêsu là gặp Thiên Chúa, biết Ngài là biết Thiên Chúa. Như trong sự sống nội tại của Thiên Chúa Ba Ngôi, Ngôi Con là “hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa” (Dt 1:3), thì cũng thế, Ngôi Con nhập thể là hình ảnh trung thực của Cha trong cách thể nhân loại. Thân phận, thái độ, hoạt động của Đức Giêsu vén mở cho con người biết Thiên Chúa đích thực là như thế nào. Lý trí của triết học đã quan niệm về Thiên Chúa một cách trừu tượng (như là hữu thể); trong Đức Giêsu con người biết Người một cách ngôi vị. Mầu nhiệm trở thành một kinh nghiệm dưới dạng nghịch lý: Đấng toàn năng trở thành bất lực, Đấng vĩnh cửu sống trong thời gian, Đấng vô hình hiển hiện thấy được, Đấng vô biên lại chịu giới hạn của không và thời gian, v. v. Từ nay muốn biết Thiên Chúa, con người không cần phải lý luận cao siêu, mà chỉ cần nhìn vào Đức Giêsu: “Ai thấy tôi là thấy Cha” (Ga 14:9). Mặt khác, trong Đức Kitô, con người cũng biết được mình là ai. Cựu Ước cho biết rằng “Ađam được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1:26); nhưng nhờ và qua Ngôi Lời nhập thể con người mới thấy được hình ảnh ấy là như thế nào. Chẳng thế mà Vaticanô II đã nhận định: “Thực vậy, mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể” (GS 22a). Càng biết Đức Giêsu, thì càng biết chính mình, càng biết loài người. Kitô học và nhân học bổ túc cho nhau.
Vốn vô hình, Thiên Chúa đã trở thành hữu hình và ban tặng cho loài người “ảnh tượng” của Người nơi Đức Giêsu. Nhờ nhập thể, Giáo hội mới có được để mà tôn kính hình ảnh của thần thiêng. Thần học về các ảnh tượng đặt nền móng trên sự kiện nhập thể. Trước nhập thể, Thiên Chúa vô hình đã cấm chỉ việc “tạc tượng vẽ hình... để mà thờ” (Xh 20:4). Sách Giáo Lý viết: “Ảnh tượng thánh, đặc biệt các ảnh tượng dùng trong Phụng Vụ, chủ yếu trình bày Chúa Kitô. Ảnh tượng không thể minh họa Thiên Chúa vô hình, khôn tả; nhưng việc Con Thiên Chúa nhập thể đã đem lại một ‘nhiệm cục’ mới về các ảnh tượng” (số 1159). Nghệ thuật thánh trong Kitô giáo đã phát sinh từ sự việc nhập thể. Như chữ viết là hình ảnh của lời nói, thì cũng tương tự như vậy, ảnh tượng là hình ảnh của Lời nhập thể. Bây giờ, biết được Thiên Chúa không chỉ qua điều tai nghe, mà còn qua cả những gì mắt thấy nữa. Thực vậy, cử chỉ, cử điệu, ngũ quan, thân thể... đều là những phương tiện giúp nhận biết Thiên Chúa. Đó chính là “kế hoạch bí tích” trong lịch sử cứu độ.
Cuối cùng, về phương diện vũ trụ luận, nhập thể cho thấy Đấng Tạo hóa đã hạ cố làm một thành phần giữa các tạo vật, đã kết hợp với vật chất hầu “cứu độ” nó. Kế hoạch tạo dựng và thần hóa là hai khía cạnh của ý định Thiên Chúa đối với muôn vật. Cuộc biến hóa hướng về với Đức Kitô, và Đức Kitô tác dụng như một thứ men ở trong vũ trụ. Vaticanô II đã nhắc lại học thuyết về Đức Kitô alpha và omega của vũ trụ (x. GS 45). Vạn vật mà còn được Thiên Chúa đoái thương như vậy, thì huống chi là loài người; quả vậy, lịch sử loài người được đưa dẫn và linh động hóa bởi một thứ “nguyên lý hướng Kitô” (christic entelechy): trước Đức Kitô là giai đoạn chuẩn bị Nhập thể, sau Đức Kitô là thời gian để thực tại thần thiêng nhập thể ngày càng sâu đậm hơn vào trong xã hội và lịch sử nhân loại; đó là cả một tiến trình thần hóa, đưa ý nghĩa của lịch sử đến chỗ lộ hiện ngày càng rõ hơn, cho đến khi được mạc khải trọn vẹn và rực rỡ trong ngày Quang lâm.
Để mạc khải mầu nhiệm nhập thể, Phúc âm Gioan đã dùng công thức sau đây: “Lời trở thành xác thịt” (Ga 1:14). Thần học biểu đạt cụ thể hơn: Ngôi Hai trở thành Đức Giêsu. Có ba yếu tố: Ngôi Lời, trở thành, xác thịt. Vì Ngôi Lời là Thiên Chúa, nên cần phải tìm hiểu:
— Thiên Chúa này là ai, là như thế nào? Thiên Chúa chỉ có một, đã đành. Nhưng như đã nói ở trên kia, không phải “tất cả trong Thiên Chúa” đã nhập thể. Thiên tính không nhập thể, vì nếu vậy thì Chúa Cha và Thần Khí cũng phải nhập thể, mà thực ra là không. Phúc âm xác định rõ Ngôi Lời đã nhập thể, nghĩa là Ngôi Hai, Ngôi Con. Thần học đặt câu hỏi: Ngôi Cha có thể nhập thể hay không? Thần học cổ điển trả lời là có, vì Ba Ngôi bằng nhau, có quyền như nhau; nhưng nhiều thần học gia hiện đại nghĩ là không; lý do là vì các Ngôi vị khác hẳn nhau, và tự bởi bản tính, Cha “không xuất ngoại.” Có lẽ tốt hơn là nên khiêm nhường thú nhận rằng lý trí loài người chẳng có thể hiểu thấu mầu nhiệm Thiên Chúa; về Người chúng ta chỉ biết được những gì đã được mạc khải, và điều bàn đến ở đây không phải là điều đã được mạc khải.
— Vấn đề “trở thành”? Thiên Chúa vốn bất biến, tuy nhiên thần học thường hiểu là Người bất biến nơi bản tính (thiên tính), nhưng lại có thể biến đổi nơi một cái gì khác (trong nhân tính, chẳng hạn). Dù Người bất biến trong chính mình, thì đối với kế hoạch cứu độ, Thiên Chúa tỏ ra thay đổi: đó là cơ sở của việc cầu nguyện, của niềm hy vọng, của đức cậy. Bởi nếu có sự tiền định tuyệt đối thì cầu nguyện xin ơn sẽ ra vô lý, vì không còn có chỗ cho niềm hy vọng nữa. Thánh Gioan viết rằng: “Lời trở thành xác thịt;” ngài không muốn nói Ngôi Lời không còn là Thiên Chúa, song muốn nói Ngôi Lời bắt đầu nhận thêm thân phận con người; hơn nữa, Ngài tiếp tục “thành” con người cho đến hồi thành tựu viên mãn. Con người Giêsu càng thành toàn thì việc nhập thể càng thành tựu; và thế mới rõ là lúc sống lại vinh hiển, việc nhập thể mới hoàn toàn thành tựu. Và đời đời Ngôi Lời vẫn tiếp tục làm người. Phẩm giá con người là thế.
Nguồn: http://www.htth.org/so/so38_39/38f_sinh_boi_trinh_nu.htm

Donnerstag, September 27, 2012

Đức Thánh Cha kể lại vụ tranh luận về Đức Mẹ tại Công Đồng Vatican II

Bùi Hữu Thư   9/11/2012

Ngài nói cần có những đường lối của sự thật, vẻ đẹp và tình yêu để nghiên cứu về Mẹ Maria

CASTEL GANDOLFO, Ý, ngày 10 tháng 9, 2012 (Zenit.org).- Đức Thánh Cha Benedict XVI ngày thứ bẩy nhắc lại vụ tranh luận ngài đã chứng kiến trong Công Đồng Vatican II về đề tài làm sao bao gồm các thảo luận về Đức Mẹ trong công đồng.

Đức Thánh Cha chia xẻ ký ức của ngài về công đồng với các tham dự viên của Đại Hội Thánh Mẫu Quốc Tế lần thứ 23, được yết kiến ngài tại Castel Gandolfo.

Chủ đề của Đại Hội Thánh Mẫu là "Thánh Mẫu Học kể từ Công Đồng Vatican II: tiếp nhận, kết quả và hy vọng."

Đức Thánh Cha Benedict ghi nhận việc tham dự của ngài vào công đồng như một thần học gia trẻ tuổi.

"Trong buổi họp thứ hai của Công Đồng, một nhóm lớn các giáo phụ yêu cầu Đức Mẹ được ghi vào trong hiến chương của Giáo Hội "Ánh Sáng Muôn Dân" (Lumen Gentium), trong khi một nhóm có số đông người tương tự lại ủng hộ cho một tài liệu đặc biệt sẽ có thể chiếu dõi ánh sáng trên phẩm giá, ưu thế và vai trò đặc biệt của Mẹ Maria trong việc cứu chuộc do Chúa Kitô thực hiện."

Đức Thánh Cha nhắc đến vụ bầu phiếu ngày 23 tháng 10, 1963, trong đó có quyết định là có một chương về Mẹ Maria trong Lumen Gentium.

Ngài nói: Trong chương này, "hình ảnh của Mẹ Maria - được tái giải thích và tái đề nghị trong khuôn khổ của Lời Chúa, của các bản văn truyền thống của các giáo phụ và phụng tự, cũng như một suy niệm về thần học bao quát và tâm linh - đã được trình bầy với tất cả sự huy hoàng và kỳ lạ, được gắn liền vào các mầu nhiệm căn bản của đức tin Kitô."

"Mẹ Maria, mà đức tin là trọng tâm được đặt vị trí trong mầu nhiệm của tình yêu và sự hiệp thông của Ba Ngôi Cực Thánh; sự hợp tác của Mẹ trong kế hoạch cứu rỗi thiêng liêng và qua sự trung gian độc đáo của Chúa Kitô được khẳng định rõ ràng và đề cao đúng mức, khiến cho trở nên một chiếu điểm cho Giáo Hội, để Giáo Hội nhận thức được chính mình, ơn gọi của mình và sứ mệnh của mình trong Đức Mẹ."

Đức Thánh Cha nói: Nhờ đó, cuối cùng thì việc đạo đức bình dân đã được nuôi dưỡng bởi các dẫn chứng của Kinh Thánh và các giáo phụ.

Ngài tiếp: "Dĩ nhiên, bản văn của công đồng không đề cập hết được các vấn đề liên quan đến vai trò của Mẹ Thiên Chúa, nhưng cũng bao gồm một chân trời chú giải thiết yếu cho mọi suy niệm sau đó về một tích cách thần học hay tâm linh hay mục vụ nhiều hơn. Ngoài ra, bản văn trình bầy một điểm cân bằng quý giá luôn luôn cần thiết giữa sự duy lý về thần học và cảm tính của đức tin.

"Vai trò đặc biệt của Mẹ Thiên Chúa phải được phát triển và nghiên cứu dưới các phối cảnh khác nhau và bổ túc cho nhau: trong khi con đường của sự thật 'via veritas' vẫn luôn luôn có giá trị, chúng ta không được bỏ quên con đường của vẻ đẹp 'via pulchritudinis' và con đường của tình yêu 'via amoris' để khám phá và chiêm ngắm đức tin trong suốt như pha lê và vững chắc của Đức Mẹ, tình yêu của Mẹ dành cho Thiên Chúa, và niềm hy vọng không thể phá hủy của Mẹ."

Mittwoch, September 26, 2012

Mẹ Maria là Nữ Vương của phục vụ, trợ giúp và yêu thương
 
Linh Tiến Khải    8/23/2012
 
 
CASTEL GANDOLFO - Mẹ Maria là Nữ Vương của phục vụ, trợ giúp và yêu thương. Mẹ sống gần Thiện Chúa trên Trời, nhưng cũng gần gũi với từng người trong chúng ta, yêu thương và lắng nghe chúng ta. Vì thế trong an vui cũng như trong những lúc tối tăm của cuộc đời, chúng ta hãy hướng nhìn lên Mẹ và tín thác nơi sự cầu bầu hiền mẫu liên lỉ của Mẹ.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khích lệ tín hữu và du khánh hành hương như trên trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 22-8-2012 trong sân nhà nghỉ măt Castel Gandolfo.

Mở đầu bài huấn dụ ngài nói:

Anh chị em thân mến, hôm nay trong phụng vụ là lễ nhớ Đức Trinh Nữ Maria được khẩn cầu với tước hiệu ” Nữ Vương”. Đây là một lễ mới được thành lập sau này, cả khi nó đã có nguồn gốc và lòng sùng kính cổ xưa. Thật thế, vì lễ đã được Đấng đáng kính Pio XII thành lập năm 1954, vào cuối Năm Thánh Mẫu, và chỉ định mừng ngày 31 tháng 5 (x. Ad ceali Reginam 11-10-1954; AAS 46 (1954), 625-640). Trong khung cảnh đó người nói rằng Đức Maria là Nữ Vương cao vượt hơn mọi thụ tạo khác vì sự cao trọng của linh hồn Mẹ và vì sự tuyệt hảo của các ơn thánh Chúa mà Mẹ đã nhận được. Mẹ không ngừng trải rộng mọi kho tàng tình yêu và các lo lắng của Mẹ cho nhân loại (Discorso in onore di Maria Regina 1-11-1954). Sau cuộc canh tân lịch phụng vụ thời hậu Công Đồng, lễ được mừng vào tám ngày sau lễ Đức Mẹ hồn xác lên Trời, để nêu bật mối dây mật thiết giữa vương quyền của Đức Maria và sự vinh hiển trong thân xác và linh hồn Mẹ bên cạnh Con Mẹ. Chúng ta đọc thấy trong Hiến chế về Giáo Hội Lumen Gentium rằng: ”Đức Maria được đưa lên vinh quang trên trời và được Chúa tôn vinh làm Nữ Vương vũ trụ, để nên giống con Mẹ trọn vẹn hơn” (LG, 59)

Tiếp tục bài huấn Đức Thánh Cha nói: Đó là nguồn gốc của ngày lễ hôm nay: Đức Maria là Nữ Vương, bởi vì được kết hiệp một cách duy nhất với Con của Người, trên con đường cuộc sống trần gian cũng như trong vinh quang trên Trời. Như giáo phụ Efrem người Siri khẳng định, chức nữ vương của Đức Maria phát xuất từ chức làm Mẹ Thiên Chúa của Mẹ: Mẹ là Mẹ Chúa, Vua các vua (Is 9,1-6) và Mẹ chỉ cho chúng ta thấy Chúa Giêsu là sự sống, ơn cứu độ và niềm hy vọng của chúng ta. Như Vị Tôi tớ Chúa Đức Phaolô VI đã nhắc lại trong Tông huấn Marialis Cultus: ”Nơi Đức Trinh Nữ Maria, tất cả đều liên quan tới Chúa Kitô, và tất cả đều tùy thuộc nơi Chúa: vì Người mà Thiên Chúa Cha, từ đời đời, đã chọn Mẹ làm Mẹ hoàn toàn thánh thiện và trang điểm Mẹ với các ơn của Thần Khí, mà Người đã không ban cho ai khác” (s. 25). Và Đức Phaolô VI còn lấy lai điều giáo phụ Ildefonso đã khẳng định: ”Điều được cống hiến để phục vụ Nữ Tỳ, được quy chiếu về Chúa, và như thế vang vọng lên trên người Con điều được ban cho Mẹ... và như thế rơi trở lại trên Vua vinh dự được khiêm ban cho Nữ Vương (ibid).

Nhưng Đức Maria Nữ Vương có nghĩa là gì? Đó có phải chỉ là một tước hiệu hiệp nhất với các tước hiệu khác, và vương miện là một trang sức như các trang sức khác hay không? Vương quyền này có nghĩa là gì? Đó là hiệu qủa sự kết hiệp của Mẹ với Con Mẹ, của cuộc sống trên Trời, nghĩa là sự kết hiệp với Thiên Chúa. Mẹ chia sẻ trách nhiệm và tình yêu của Thiên Chúa đối với thế giới. Có một ý niệm chung tầm thường về vua hay nữ hoàng: đó là một người với quyền bính và sự giầu sang. Nhưng đây không phải là loại vương quyền của Chúa Giêsu và của Mẹ Maria. Chúng ta hãy nhớ tới Chúa: vương quyền, chức là vua của Chúa Kitô được làm thành bởi sự khiêm nhường, phục vụ và tình yêu; nhất là phục vụ, trợ giúp và yêu thương. Chúng ta hãy nhớ rằng Chúa Giêsu đã được công bố là vua trên Thập Giá với bảng do quan Philatô cho viết ”vua người Do thái” (Mc 15,26). Trong lúc ở trên thập giá Người cho thấy Người là vua, và là vua như thế nào? bằng cách đau khổ vì chúng ta, cho chúng ta, yêu thương cho đến cùng, và như thế cai trị và tạo ra chân lý, tình yêu và công lý. Hay chúng ta hãy nghĩ tới lúc khác: trong Bữa Tiệc Ly Người cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Như vậy vương quyền của Chúa Giêsu không liên quan gì tới vương quyền của các kẻ quyền thế của trái đất. Người là một vì vua phục vụ các tôi tớ của mình, như Người đã chứng minh trong toàn cuộc sống của Người. Đối với Mẹ Maria cũng thế: Mẹ là Nữ Vương trong việc phục vụ Thiên Chúa và nhân loại. Mẹ là Nữ Vương của tình yêu, sống ơn trao ban mình cho Thiên Chúa để bước vào trong chương trình cứu độ con người. Mẹ trả lời Sứ Thần: ”Này tôi là nữ tỳ của Chúa” và trong bài thánh thi Magnificat Mẹ hát: “Thiên Chúa đã đoái nhìn tới sự mọn hèn của nữ tỳ Người”. Mẹ trợ giúp chúng ta. Mẹ là Nữ Vương bằng cách yêu thương chúng ta, trợ giúp chúng ta trong mọi nhu cầu; Mẹ là chị của chúng ta, là nữ tỳ khiêm hạ.

Nói thêm trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã đưa ra câu hỏi như sau:

Mẹ Maria thi hành vương quyền phục vụ và yêu thương như thế nào? Bằng cách canh thức trên chúng ta là con cái Mẹ, hướng về Mẹ trong lời cầu nguyện, để cám ơn Mẹ hay để cầu xin sự chở che hiền mẫu của Mẹ và sự trợ giúp trên trời của Mẹ, sau khi lạc đường, bị áp bức bởi khổ đau, lo lắng vì các chuyện buồn thương và khốn khó của cuộc sống. Trong an vui hay trong đen tối của cuộc đời chúng ta hãy hướng về Mẹ Maria và tín thác chúng ta cho lời bầu cử liên lỉ của Mẹ, để từ Con Mẹ chúng ta có được mọi ơn thánh và lòng xót thương cần thiết cho cuộc hành hương trên các nẻo đường của thế giới này. Qua Đức Trinh Nữ Maria, chúng ta tin cậy hướng về Đấng cai quản thế giới và nắm trong tay các vận mệnh của vũ trụ. Từ bao thế kỷy nay, Mẹ được khẩn cầu như là Nữ Vương trên trời: sau kinh Mân Côi Mẹ được khẩn nài trong Kinh Cầu tám lần như là Nữ Vương của các Thiên Thần, của các Tổ phụ, của các Ngôn sứ, của các Tông Đồ, của các vị Tử đạo, của các vị Tuyên tín, của các Trinh nữ và của tất cả các Thành và các Gia đình. Tiết nhịp của các lời khẩn cầu cổ xưa và các lời cầu thường ngày như là kinh Kính Chào Nữ Vương, giúp chúng ta hiểu rằng Đức Thánh Trinh Nữ là Mẹ chúng ta bên cạnh Chúa Giêsu Con Mẹ, trong vinh quang trên Trời, luôn luôn ở cùng chúng ta trong cuộc sống thường ngày.

Tước hiệu Nữ Vương như thế là tước hiệu của sự tin tưởng, tuơi vui và tình yêu. Và chúng ta biết rằng Đấng có trong tay một phần các vận mệnh của thế giới là Đấng tốt lành, yệu thương chúng ta và trợ giúp chúng ta trong các khó khăn.

Rồi Đức Thánh Cha kết luận bài huấn dụ như sau: Các bạn thân mến, lòng sùng kính Đức Mẹ là một yếu tố quan trọng trong cuộc sống thiêng liêng. Trong lời cầu chúng ta đừng quên tin tưởng hướng về Mẹ. Mẹ Maria sẽ không quên bầu cử cho chúng ta bên Con Mẹ. Khi nhìn lên Mẹ chúng ta hãy noi gương đức tin và sự sẵn sàng tràn đầy của Mẹ đối với chương trình tình yêu của Thiên Chúa, sự quảng đại của Mẹ đón nhận Chúa Giêsu. Chúng ta hãy tập sống từ Mẹ Maria. Mẹ Maria là Nữ Vương trên trời ở gần Thiên Chúa, nhưng cũng là Mẹ gần gũi với từng người trong chúng ta, yêu thương và lắng nghe chúng ta.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Chào các nhóm nói tiếng Phàp ngài khích lệ họ moi gương đức tin và lòng quảng đại của Mẹ Maria để tiếp nhận Chúa Giêsu vào trong cuộc sống. Mẹ là Nữ Vương trên trời, sống gần Thiên Chúa, nhưng cũng là Mẹ gần gũi từng người trong chúng ta, Mẹ yêu thương chúng ta và lắng nghe chúng ta.

Chào các nhóm nói tiếng Anh Đức Thánh Cha xin cho lời cầu của Đức Mẹ hướng dẫn chúng ta trên con đường hành hương đức tin, để chúng ta được chia sẻ chiến thắng của Con Mẹ và hiển trị với Người trong Nước vĩnh cửu.

Với các nhóm nói tiếng Tây Ban Nha Đức Thánh Cha mời gọi họ dâng lên Mẹ Maria Nữ Vương các lời cầu tha thiết, vì Mẹ là Mẹ Của Chúa Kitô, Vua các vua, để Mẹ dâng chúng lên cho Chúa và xin ơn lành cho chúng ta.

Chào các tín hữu Ba Lan ngài nhắn nhủ họ hãy tín thác nơi quyền là Nữ Vương của Mẹ Maria, và nếm hưởng sự chở che hiền mẫu của Mẹ.

Trong tiếng Slovac ngài khuyên tín hữu hãy biết tin tưởng hướng về Mẹ trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.

Sau cùng bằng tiếng Ý Đức Thánh Cha đặc biệt chào các ”Nữ tu của Mẹ Maria rất thánh ủi an” đang nhóm tổng tu nghị tại Roma, các nữ tu Calddê ”Nữ tử Đức Maria Vỗ Nhiễm nguyên tội” đang dấn thân phục vụ người dân Iraq, cũng như các tham dự viên cuộc họp của ”Hiệp hội các Gia đình cầu nguyện cho ơn gọi”, các đại chủng sinh tham dự đại hội mùa hè, và các cặp vợ chồng mới cưới. Ngài mời gọi mọi người dành thời giờ để đào tạo đức tin kitô.

Nguồn:  http://www.vietcatholic.net/News/Html/99684.htm