Trang chủ

Samstag, August 18, 2012

ĐTC: Đức Mẹ đang ở bên Thiên Chúa lắng nghe các lời kinh

Bùi Hữu Thư  8/15/2012

CASTEL GANDOLFO, Ý (CNS) -- Đức Thánh Cha Benedict XVI nói: Đức Maria đã được đưa về trời, đang ở bên Thiên Chúa và luôn luôn sẵn sàng lắng nghe và đáp ứng các lời khấn xin giúp đỡ.

Ở bên Thiên Chúa trên Thiên Đàng, Mẹ Maria "không rời xa chúng ta, và không bay tới một thiên hà nơi chưa ai biết đến," nhưng Mẹ "lại còn gần gũi chúng ta hơn." Đức Thánh Cha nói như vậy ngày 15 tháng 8 trong bài giảng Thánh Lễ Mẹ Hồn Xác Lên Trời.

Cùng với người anh 88 tuổi là Đức Ông Georg Ratzinger, ngồi ngay hàng ghế đầu, Đức Thánh Cha cử hành Thánh Lễ sớm mai tại Nhà Thờ Thánh Tôma. Dùng một cây gậy chống mầu trắng, ngài đã đi bộ ngang quảng trường trước mặt vila của ngài tại Castel Gandolfo.

Ngài nói, Đức Mẹ LênTrời, ban cho các tín hữu "một niềm tin vững chắc: là Chúa đang chờ đợi chúng ta. Chúng ta không đang di chuyển tới một vùng chân không."

Đức Thánh Cha nói: "Và đi tới thế giới kia, chúng ta sẽ tìm thấy sự thiện hảo của Mẹ Maria, chúng ta sẽ tìm thấy các người thân yêu, và sẽ tìm được tình yêu vĩnh cửu."

Đức Thánh Cha Benedict, đã không theo đúng bài giảng ngài đã soạn trước, ngài nói sự kiện Mẹ Maria ở gần bên Thiên Chúa đảm bảo được sự gần gũi của ngài với mọi tạo vật.

Ngài nói: "Mẹ Maria, hoàn toàn kết hợp với Thiên Chúa, có một trái tim to lớn khiến cho mọi tạo vật đều có thể tìm được nơi trú ngụ," một sự kiện được biểu hiệu bởi các lời kinh của giáo dân trên toàn thế giới dâng tại các Đền Thánh Đức Mẹ và trước các tượng ảnh của Mẹ khi lời cầu của họ được đáp ứng.

Ngài nói: Sự hiện diện của Mẹ Maria trên thiên đàng bầy tỏ rằng "trong Chúa con người có chỗ trú ngụ."

Đồng thời, ngài nói, Mẹ chứng tỏ rằng "trong con người, Thiên Chúa có chỗ trú ngụ," và khi Thiên Chúa hiện diện nơi mỗi cá nhân và họ để cho Thiên Chúa ảnh hưởng đến cách thức họ hành xử trên thế gian, thì thế giới trở nên một nơi chốn tốt đẹp hơn.

Ngài nói: Ngày nay nhiều người đã nói về niềm hy vọng có được một thế giới tốt đẹp hơn.

"Bao giờ, nếu có và khi có một thế giới tốt đẹp hơn, chúng ta chẳng biết. Nhưng có một điều chắc chắn là: Một thế giới xa Chúa sẽ không tốt đẹp hơn mà chỉ xấu hơn. Chỉ có sự hiện diện của Chúa mới đảm bảo cho có một thế giới tốt đẹp hơn."

Người Kitô giáo hy vọng có một thế giới tốt đẹp hơn và tìm được một nơi chốn ở cùng Thiên Chúa cho đến muôn đời "không chỉ là mong ước tới Thiên Đàng," mà là để cho ước muốn có Chúa "khiến chúng ta trở thành những khách hành hương không mệt mỏi, gia tăng lòng can đảm và sức mạnh đức tin, đồng thời cũng là lòng can đảm và sức mạnh của tình yêu."

Sau đó, Đức Thánh Cha Benedict đọc kinh Truyền Tin với các du khách chen chúc trong sân trong của vila nghỉ hè của ngài.

Tiếp tục suy niệm về ý nghĩa của Lễ Lên Trời, ngài nói: Lễ này bầy tỏ cho chúng ta một cách rõ ràng, định mệnh của chúng ta và của nhân loại và lịch sử. Thực vậy, trong Mẹ Maria, chúng ta chiêm ngắm thực tại của vinh quang mà mỗi người chúng ta và toàn thể giáo hội đang được mời gọi."

Mittwoch, August 15, 2012

Ngày 15-8-2010 - Đức Maria viếng thăm bà Êlisabét (Luca 1,39-56 – Đức Maria lên trời)

Bằng cách khéo léo vận dụng những từ ngữ và hình ảnh Cựu Ước, tác giả Lc đưa chúng ta đến chỗ nhận ra Đức Maria là Hòm Bia Giao ước mới, Mẹ của Đức Chúa, Đấng đã tin như Abraham ngày xưa.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm

 
1.- Ngữ cảnh

Trong phần tường thuật về thời thơ ấu, tác giả Lc bố trí ba giai thoại: loan báo Gioan chào đời (1,5-25), loan báo Đức Giêsu chào đời (1,26-38) và Đức Maria đi thăm bà Êlisabét (1,39-56). Truyện thứ ba này giả thiết có hai truyện đầu và bổ sung cho hai truyện đó. Truyện thứ ba này đóng vai trò nối kết hai truyện trước, đặc biệt liên kết cc. 24-25 với cc. 36-37. Đã soạn thảo bài tường thuật về loan báo Gioan chào đời, sau đó, mô phỏng theo bài ấy mà soạn ra bài nói về loan báo Đức Giêsu chào đời, nay Lc dùng giai thoại Đức Maria đi thăm viếng bà Êlisabét để liên kết truyện hai lời loan báo cách chặt chẽ hơn. Câu truyện ở 1,5-24a được tiếp nối với 1,57-66.  

Trong giai thoại trước, sứ thần cho biết: “Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng [episkiasei] trên bà” (1,35). Tác giả đã mượn lại hình ảnh Đám mây sáng che phủ Nhà Tạm (Xh 40,35: “Ông Môsê không thể vào Lều Hội Ngộ vì đám mây đậu/rợp bóng [epeskiazen] trên đó, và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm”) tượng trưng cho sự hiện diện vinh quang của Yhwh với Israel để nói về Đức Maria lúc này: Mẹ được coi như là Hòm Bia Giao ước.

2.- Bố cục

Có thể phân chia bản văn này thành hai phần, với một kết luận:
1) Cuộc gặp gỡ: Đức Maria viếng thăm bà Êlisabét; bà này nhận ra Maria là “Thân Mẫu Đức Chúa” (1,39-45);
2) Bài Magnificat: Đức Maria phản ứng trước lời ca tụng của bà Êlisabét và ân huệ Thiên Chúa tặng ban  (1,46-55):
a) Một cái nhìn mới về Thiên Chúa (cc. 46-50),
b) Một cái nhìn mới trên thế giới (51-55).

3.- Vài điểm chú giải

- đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng … Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?
(41.42.43): Tác giả Lc đã dựa vào 2 Sm 6 (vua Đavít chuyển Hòm Bia về Giêrusalem), 1–2 Sb và sách Giuđitha để viết 1,39-56: Đức Maria là “Hòm Bia giao ước” mới cũng đang di chuyển về phía nam (Giuđa).


2 Sm 6
Lc 1,39-56
Trong xứ Giuđa (2)
Trong xứ Giuđa
Dân vui
Êlisabét và con vui
Dân reo
Gioan nhảy mừng (44)
Vào nhà Ôvết Êđôm (10)
Êlisabét reo, anephônêsen (42)
Hòm Bia: nguồn phúc  (11-12)
Maria:nguồn phúc (41.44)
Bởi đâu tôi được Hòm Bia Đức Chúa đến nhà tôi? (9)
Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi? (43)
Ở nhà Ôvết Êđôm ba tháng (11)
Ở với bà Êlisabét độ ba tháng (56)



- Động từ anephônêsen (“reo”) chỉ được dùng để chỉ những tiếng tung hô trong phụng vụ (1 Sb 16,45.42) và đặc biệt trong cuộc di chuyển Hòm Bia (1 Sb 15,28 và 2 Sb 5,13).
- Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc (42): Ở đây tác giả đặt song đối Đức Maria với Gđt 13,18-19, như thế ám chỉ Đức Giêsu là Thiên Chúa:

Gđt 13,18-19
Lc 1,42
Bà được chúc phúc…
giữa tất cả các phụ nữ
Em được chúc phúc…
hơn mọi người phụ nữ
Đức Chúa là Thiên Chúa
được chúc phúc (eulogêmenos)
quả lòng dạ em cưu mang
được chúc phúc (eulogêmenos)


- Lc 1,5–2,22 là một chuỗi các thời điểm Lc nêu ra để chứng tỏ các lời ngôn sứ đã ứng nghiệm: Tác giả đã muốn nối kết biến cố sứ thần Gabriel hiện ra ở Đền Thờ với việc Đức Giêsu tỏ mình ra cũng tại đấy bằng một con số huyền bí (70 tuần 7 ngày):
- 6 tháng (Lc 1,26.36) kể từ khi ông Dacaria được báo tin tới khi Maria được báo tin:
30 ngày x 6 = 180 ngày
- 9 tháng kể từ khi Đức Maria được truyền tin đến khi Đức Giêsu chào đời:
30 ngày x 9 = 270 ngày
- 40 ngày kể từ khi Đức Giêsu chào đời cho đến khi được tiến dâng:
= 40 ngày
Tổng cộng: = 490 ngày
= 70 tuần 7 ngày.

Thế mà theo lời sấm Đn 9,21-24, sau 70 tuần, Ít-ra-en sẽ được thanh tẩy khỏi các tội và Đền thờ Giêrusalem sẽ được tái cung hiến (thời vua Antiôkhô IV Êpiphanê / Ông Giuđa Macabê). Tác giả Lc muốn cho thấy rằng việc Đức Giêsu được tiến dâng trong Đền thờ đã khởi sự việc “Vinh quang” của Thiên Chúa (x. cụ Simêôn gọi Đức Giêsu là “vinh quang của Israel”) đến cư ngụ vào thời cánh chung để thanh tẩy Đền thờ và Israel. Việc này cũng làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Malakhi (3,1).

- Em thật có phúc, vì đã tin (45): Nhận định khiến độc giả nghĩ ngay đến Abraham, vị tổ phụ đã mở đầu lịch sử cứu độ bằng hành vi đức tin (x. St 12,1-5).

- Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa
(46): Dịch sát là “linh hồn tôi (= Tôi) đề cao (megalynô) Đức Chúa”. Câu này có thể là Tv 69,31, diễn tả lời ca ngợi và tạ ơn đối với Thiên Chúa cao cả uy hùng, nguồn mạch các phúc lành Đức Maria đã nhận được.    

- thần trí tôi
(= Tôi) hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi (47): Câu này hợp với câu trên làm thành vế của một câu thơ Do-thái viết theo cách biền ngẫu (= song đối) tổng hợp, nghĩa là hai vế song song, nhưng vế sau bổ túc nghĩa cho vế trước: Linh hồn tôi, cũng là chính bản thân tôi, đề cao tán dương Thiên Chúa trong niềm hoan lạc.

- Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới
(48): Câu này gợi nhớ tới lời khấn của bà Anna, mẹ của ngôn sứ Samuel (1 Sm 1,11). Dịch sát là: “Người đã nhìn đến sự hèn mọn của nữ tỳ Người”. “Hèn mọn, thấp hèn” (tapeinôsis) căn bản là sự nhục nhã của người phụ nữ không có con. Khi trả lời cho sứ thần Gabriel, Đức Maria đã nhìn nhận mình là “nữ tỳ của Chúa” (1,38), nên có thể dịch là “phận nữ tỳ hèn mọn”. Đức Maria cảm thấy mình hoàn toàn không xứng đáng làm mẹ của Đấng Mêsia thuộc giòng dõi Đavít và cũng là Con Thiên Chúa (1,32).

- từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc
: Lời này nhắc nhớ đến nhận định của bà Êlisabét: “Em thật có phúc (makaria) vì đã tin” (1,45). Lời này diễn tả một thái độ căn bản mà mọi ki-tô hữu phải có đối với Mẹ của Ngôi Lời. Đang sống trong hiện tại của Mẹ, Mẹ Maria cũng là người của thời sẽ đến.

- Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả
(49): Thiên Chúa là “Đấng Toàn Năng” (ho dynatos), mọt danh hiệu dành cho Yhwh (Đức Chúa) trong bản dịch hy lạp (LXX) của sách ngôn sứ Dcr 3,17; Tv 89,9. Sứ thần Gabriel đã loan báo: “Quyền năng (dynamis) của Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà” (1,35). Kể từ chỗ này, Đức Maria sẽ không dùng danh xưng “Thiên Chúa” nữa. Theo bản văn, chúng ta hiểu là tất cả những gì Đức Maria ca tụng về Thiên Chúa sau này đều được gán cho “Đấng Toàn Năng”. “Những điều cao cả” nhắc nhớ tới sách Đnl 10,21. Theo truyền thống Cựu Ước, “những điều cao cả” mà dân Do-thái ca tụng Thiên Chúa đều liên hệ đến những công trình cứu độ của Người đối với Israel (x. Đnl 11,7; Tl 2,7).

- danh Người
(= bản thân Người) thật chí thánh chí tôn: Câu này gợi đến Tv 111,9. Chính sứ thần truyền tin cũng đã loan báo rằng từ Đấng Toàn Năng có Danh chí thánh, người con sẽ sinh ra cho Mẹ cũng được gọi là “Đấng Thánh” (1,35). Bởi vì Ngài là “thánh” ([h]a-gios), nghĩa là không có tình trạng bất toàn của những kẻ đang sống trên mặt đất (), Thiên Chúa có thể bày tỏ lòng thương xót “từ đời nọ tới đời kia”.

- Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người
(50): Câu này gợi tới Tv 103,17. Không phải là Thiên Chúa chỉ tỏ lòng thương xót đối với những ai sợ sệt khúm núm như những nô lệ trước mặt Ngài, mà là đối với những ai nhìn nhận và tôn trọng sự cao cả của Ngài. Lòng thương xót (Hy-lạp eleos; Híp-ri hesed) đây cũng chính là lòng trung thành với các lời hứa.   

- Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh dẹp tan phường lòng trí kiêu căng
(51): “Cánh tay của Thiên Chúa” là công thức nhân hình để nói về sức mạnh hay quyền năng của Ngài (Xh 6,6; Đnl 4,34; Is 40,10; 51,5.9; 53,1). Bằng sức mạnh này, Ngài có thể đảo lộn những hoàn cảnh con người đã tạo ra. “Phường lòng trí kiêu căng” chính là những kẻ đối nghịch với Thiên Chúa (x. Is 2,12; 13,11). Đây là những người cưu mang những kế hoạch vĩ đại, hầu như chống nghịch với Thiên Chúa.

- Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường
(52): Ở đây có một chỗ chơi chữ: Bởi vì Thiên Chúa là ho dynatos (Đấng Toàn Năng), Ngài hạ bệ những dynastas, “các ông hoàng, các bậc quyền thế”. Đây là những người thống trị các người dưới quyền từ vị trí độc tôn của họ. Câu này có thể gợi tới G 12,19 hoặc 1 Sm 2,7. Và bởi Ngài vẫn nhìn đến những “thân phận hèn mọn”, Ngài sẽ nâng cao những “kẻ khiêm nhường”, tức những người biết mình không có gì cả và không là gì cả trước nhan Thiên Chúa.  

- Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng
(53): Câu này nhắc tới Tv 107,9, hoặc 1 Sm 2,5. “Người giàu có” là những người dư thừa của cải nhưng bo bo giữ kỹ, trong khi bao người chết đói. Đức Maria vẫn đang đề cao quyền năng của Đấng Tối Cao.

- Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người
(54): Các lời này nhắc tới Is 41,8-9 (LXX). Đấng Cứu thế sắp chào đời lại là một dịp nữa để Thiên Chúa đến cứu độ dân Ngài.

- như đã hứa cùng cha ông chúng ta
(55): Lời này nhắc tới Mk 7,20. Đức Maria nhắc tới các lời hứa Thiên Chúa đã ban cho các tổ phụ (St 17,7; 18,18; 22,17) và cho vua Đavít (2 Sm 7,11-16).

4.- Ý nghĩa bản văn

* Cuộc gặp gỡ (39-45)

Cuộc gặp gỡ với giữa Đức Maria với bà Êlisabét nhắc lại cuộc gặp gỡ giữa Mẹ với sứ thần Gabriel: cả hai vị đều nhận định Mẹ đầy ơn phúc. Thiên Chúa đã chúc phúc cho Mẹ; phúc lành của Thiên Chúa tiếp tục ở trên Mẹ. Thiên Chúa đã chúc phúc cho Mẹ cùng với hoa quả lòng Mẹ. Phúc lành của Thiên Chúa là quyền lực và sức mạnh làm cho có thể có sự sống và bảo tồn sự sống. Đức Maria là người “được chúc phúc” theo cách đặc biệt: quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa đã làm cho mẹ có khả năng chuyển thông sự sống nhân loại cho Đức Giêsu, Đấng là Con Thiên Chúa, cũng là Chúa tể sự sống, sẽ chiến thắng cái chết và ban sự sống vĩnh cửu. Tiếng kêu lớn của bà Êlisabét là một lời ca tụng hành động của Thiên Chúa, nhưng cũng diễn tả một nỗi kinh ngạc chan chứa niềm vui đối với Maria, người đã được Thiên Chúa làm cho những việc cao cả như thế.

Đứng trước Đức Maria, bà Êlisabét cũng đồng thời cảm nghiệm về vị trí, về sự bất xứng của chính mình: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” . Bà trân trọng Đức Maria đúng mức; bà bày tỏ lòng tôn kính. Còn Đức Maria, Mẹ không chỉ đến thăm bà Êlisabét, nhưng còn ở lại ba tháng, để phục vụ.

Cuối cùng bà Êlisabét diễn tả nhận định của bà về cách xử sự của Mẹ: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. Đức Maria cốt yếu và trước tiên là người đã tin. Cách đối xử của Thiên Chúa đối với Đức Maria được diễn tả bằng ân sủng và phúc lành; cách đối xử của Đức Maria đối với Thiên Chúa được diễn tả bằng lòng tin. Đức Maria đã tin vào Thiên Chúa, vào giá trị của lời Ngài, quyền năng của Ngài. Mẹ đã diễn tả niềm tin đó qua tiếng “xin vâng” với sứ điệp của sứ thần. Lịch sử dân Ít-ra-en mở ra với hành vi đức tin của Abraham; lịch sử cứu độ thế giới mở ra với hành vi đức tin của Đức Maria.

* Bài Magnificat (46-55)

Đức Maria đã đáp lại lời chào chan hòa niềm phấn khởi vui tươi bằng một bài ca ngợi dâng lên Thiên Chúa. Lý do đích thực của niềm vui là được Thiên Chúa thương quan tâm đến. Qua bài ca này, Đức Maria đã diễn tả một cái nhìn mới về Thiên Chúa (cc. 46-50) và một cái nhìn mới trên thế giới (51-55).

Trong cái nhìn đức tin được Lời Chúa hướng dẫn, Đức Maria thấy Thiên Chúa, Đức Chúa, Đấng Thánh, lại đã chiếu cố đến bản  thân của Mẹ, một thiếu nữ nhỏ bé tại một làng nhỏ bé. Mẹ đã diễn tả khám phá của mình về Thiên Chúa. Đức Maria ngợi khen Thiên Chúa vì chính Ngài, cho dù Mẹ ngợi khen Thiên Chúa về những gì Ngài đã thực hiện nơi Mẹ, nghĩa là phát xuất từ chính kinh nghiệm của Mẹ. Niềm vui sướng hân hoan của Đức Maria là niềm vui sướng hân hoan cánh chung về cách hành động vĩnh viễn của Thiên Chúa và là niềm vui sướng hân hoan của tạo vật khi cảm thấy mình là tạo vật được Đấng Tạo hóa yêu thương, cảm thấy mình được phục vụ Đấng Thánh. Các thánh khi cảm nhận được ơn Chúa viếng thăm, nhiều khi đã reo lên ngây ngất, phương chi Đức Maria, được đón tiếp chính Thiên Chúa trong lòng.

Mẹ cũng diễn tả một cái nhìn mới trên thế giới. Cũng vẫn trong cái nhìn đức tin, Đức Maria mô tả một sự đảo lộn và một sự thay đổi tận căn các phe phái loài người: “Chúa hạ bệ – Người nâng cao; Chúa ban đầy dư – Người đuổi về tay trắng”. Đây là công bố một sự xoay chiều không thể vãn hồi, bởi vì là công trình của Thiên Chúa. Trong cuộc chuyển biến này, nổi rõ hai hạng người: một bên là hạng người kiêu căng-quyền thế-giàu có, bên kia là hạng người hèn mọn-nhỏ bé-nghèo đói. Cuộc đảo lộn vị trí giàu-nghèo là dấu chỉ và sự biểu lộ biến cố cánh chung là việc Đấng Mêsia ngự đến.     

+ Kết luận

Bằng cách khéo léo vận dụng những từ ngữ và hình ảnh Cựu Ước, tác giả Lc đưa chúng ta đến chỗ nhận ra Đức Maria là Hòm Bia Giao ước mới, Mẹ của Đức Chúa, Đấng đã tin như Abraham ngày xưa.

Bài ca Ngợi Khen của Đức Maria là một bài ca ngợi sự cao cả của Thiên Chúa, lòng thương xót của Ngài, nhưng cũng là bài về sự công bình và hòa bình giữa loài người. Ơn cứu độ là một điều thiện hảo toàn diện: đón nhận tình bằng hữu với Thiên Chúa, thì cũng phải sống tình liên đới bình đẳng giữa loài người.

Tư cách đặc biệt của Đức Maria cùng với bài ca cũng độc đáo này đưa chúng ta đến chỗ đối diện với Đấng mà Mẹ đang cưu mang trong lòng: Người không những là Đấng Mêsia thuộc dòng tộc Đavít, là Con Đấng Tối Cao, mà cũng là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa.
  
5.- Gợi ý suy niệm

1. Vừa biết tin chị họ mang thai sắp đến thời kỳ sinh nở, Đức Maria đã vội vã lên đường để đến phục vụ bà. Nhưng vì Mẹ cũng đang cưu mang Đấng Cứu thế, Mẹ trở thành người mang Đức Kitô đến cho gia đình Dacaria. Người ki-tô hữu, đang mang Đức Kitô trong tâm hồn, cũng phải luôn luôn nôn nóng ra đi trên khắp nẻo đường thế giới để mang niềm vui và sự bình an đến cho mọi người.

2. Phần thứ nhất của Kinh Kính Mừng hoàn toàn lấy từ Tân Ước, liên kết các lời nói đầu tiên của thiên thần (“Kinh mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà”) với những lời nói đầu tiên của bà Êlisabét (“Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ”). Sứ thần đã gọi Đức Maria là “đầy ơn phúc”; bà Êlisabét đã gọi ngài là “có phúc lạ” (= được chúc phúc). Cả hai vị đều diễn tả trước hết quan hệ Thiên Chúa tạo ra với Đức Maria, cách thức Ngài ngỏ lời với Đức Maria. Tất cả những gì người ta có thể nói về Mẹ tùy thuộc tương quan này. Đức Maria vui sướng được sống trong tương quan này. Chúng ta có sống với lòng biết ơn trong sự lệ thuộc vào Thiên Chúa chăng?

3. Đức Maria đã cưu mang Con Đấng Tối Cao (1,32), Con Thiên Chúa (1,35) và sẽ sinh hạ Ngài ra. Do đó, Mẹ là “Thân Mẫu Đức Chúa”. Như bà Êlisabét đã trải nghiệm thân phận bất xứng, chúng ta cũng diễn tả kinh nghiệm này qua lời cầu xin: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Chúng ta xin Mẹ Đức Chúa, Mẹ Thiên Chúa, chuyển cầu cho chúng ta. Chúng ta nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Bà Êlisabét chan hòa niềm vui vì Thân Mẫu Đức Chúa đến nhà bà; đồng thời bà biết rằng bà không ở ngang tầm với Thân Mẫu Đức Chúa, nhưng không hề tị hiềm. Bà bày tỏ sự kính trọng đối với Đức Maria. Trong khi đó, Đức Maria, Mẹ Đức Chúa, lại ở lại nhà bà Êlisabét. Sự kính trọng các khác biệt không chống lại sự hiệp thông thân tình và vui tươi.

4. Do mầu nhiệm Truyền Tin và Thăm Viếng, Đức Maria chính là điển hình của kiểu sống mà chúng ta phải theo. Trước tiên, Mẹ đã đón tiếp Đức Giêsu vào cuộc sống của Mẹ; sau đó, những gì Mẹ đã lãnh nhận, Mẹ đã chia sẻ. Mỗi lần chúng ta rước lễ, Đức Giêsu là Ngôi Lời trở thành thịt trong cuộc đời chúng ta. Vậy đấy đã là Lễ Tế Tạ Ơn đầu tiên: phần dâng lễ chính là Đức Maria dâng Con Mẹ nơi mình, còn bàn thờ Người đã thiết lập là lòng Mẹ. Là người duy nhất có thể khẳng định với một niềm tin tưởng tuyệt đối: “Này là Mình tôi”, kể từ lúc đó, Đức Maria đã dâng chính thân Mẹ, sức mạnh của Mẹ, toàn bản thân Mẹ, để tạo nên Thân Thể Đức Kitô” (CP. Têrêxa Calcutta).

Dienstag, August 07, 2012

ĐỨC MA-RI-A LINH HỒN VÀ XÁC LÊN TRỜI


Trong những trang đầu của sách Sáng Thế, chúng ta thấy A-đam đã được Đấng Tạo Thành cảnh cáo không được ăn trái cây biết điều lành điều dữ: “Bởi ngày nào ngươi ăn trái này, chắc chắn ngươi sẽ phải chết” (St 2:17).  Hẳn ông đã rõ sự chết sẽ là hình phạt cho việc phản nghịch giới răn Thiên Chúa.  Còn sự vâng phục sẽ đem lại bất tử thể xác.


Ta thấy điều này trong nhiều đoạn khác.  Sách Khôn Ngoan viết: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong” (Kn 1:13).  “Thiên Chúa đã sáng tạo con người, cho họ được trường tồn bất diệt… nhưng chính vì quỉ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian” (Kn 2:23-24).  Thánh Phao-lô cũng nói:  “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết;  như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (Rm 5:12).

Như thế chúng ta thấy hình phạt đã giáng xuống trên nguyên tổ:  “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (Kn 3:19).  Sự chết và sự tan rữa thân xác con người trong mồ là hình phạt vì tội lỗi mà con người phải chịu cùng với tội.

Tất cả những điều này áp dụng cho Đức Ma-ri-a như thế nào?  Nếu bởi đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ đã được giữ gìn khỏi tội tổ tông và hậu quả của nó, thì chúng ta chẳng nên coi nguyên lý “ngươi là bụi đất, và sẽ trở về bụi đất” đã không áp dụng cho Mẹ hay sao?

Thân xác Đức Maria đã không bị mục nát trong mồ nhưng đã được Thiên Chúa cho tái hợp với linh hồn Mẹ sau khi chết, và như thế Mẹ đã được về hưởng vinh phúc muôn đời trên trời.  Đó là giáo huấn của Giáo Hội Công giáo mà chúng ta thường gọi là Đức Ma-ri-a Linh hồn và Xác lên trời.

Nhưng bạn cũng có thể hỏi, vậy tại sao Đức Ma-ri-a đã chết?  Khi cuộc lữ hành của Mẹ trên trần gian kết thúc, tại sao ngài không được lãnh nhận phần thưởng mà không phải qua cái chết?  Để hiểu rõ câu trả lời, hãy ngược lại lịch sử và xét về một hình phạt khác con người phải chịu do tội nguyên tổ – đó là sự đau khổ.  Đau khổ và cơ cực trong cuộc sống là hậu quả của sự sa ngã (St 3:16-18).  Thuở ban đầu con người đã được tạo dựng để không phải chịu những cơ cực và đau khổ phần xác;  nhưng bởi tội lỗi nên cơ cực và đau khổ đã được đưa vào thế gian.

Đau khổ và sự chết là hậu quả của tội, nên Đức Giê-su Ki-tô đã đến thế gian để chuộc chúng ta khỏi tội ấy.  Ngài đã cứu chuộc bằng cách chịu đau khổ và chịu chết.  Sinh bởi Mẹ Ma-ri-a, Đức Giê-su là một phần tử của gia đình nhân loại, nhưng Ngài không thuộc dòng giống của A-đam vì Ngài không có một người cha thế trần.  Do đó Ngài đã không vướng mắc tội hoặc chịu hình phạt phải đau khổ và phải chết.  Những hình phạt này Ngài đã tự ý chấp nhận là để dâng lên Thiên Chúa tác động tình yêu tuyệt vời qua sự đau khổ và cái chết trên thập giá – nhờ đó cứu rỗi chúng ta.

Đức Ma-ri-a Chấp Nhận Đau Khổ và Sự Chết


Nếu như Thiên Chúa không giữ gìn Mẹ, thì Đức Ma-ri-a cũng đã mắc tội và phải chịu những hình phạt của tội.  Bởi được giữ gìn nên Đức Ma-ri-a ở trong tình trạng như nguyên tổ lúc chưa phạm tội.  Đúng ra đặc ân được thoát khỏi đau khổ và sự chết được ban tặng cho Mẹ, nhưng bởi Mẹ đã tự ý liên kết với Đấng Cứu Thế chịu đau khổ trong chương trình cứu chuộc là chương trình đòi hỏi Ngài phải chết.  Đức Ma-ri-a đã tự ý liên kết với Đức Ki-tô và do đó tự ý chấp nhận đau khổ và sự chết, không phải như hình phạt do tội lỗi, nhưng như là những khuyết điểm của bản tính con người.  Mẹ đã khước từ đặc ân của một người không vướng mắc bợn nhơ do tội nguyên tổ và đã chấp nhận đau khổ và sự chết là để kết hợp với Đấng Cứu Thế.

Đó là lý do tại sao Đức Ma-ri-a đã chết và cũng là lý do tại sao thân xác Mẹ không còn ở lại trong mồ.  Là E-và mới, Đức Ma-ri-a đã kết hợp với Đức Giê-su Ki-tô, A-đam mới, trong sự toàn thắng tội lỗi và hậu quả của nó – đặc biệt là sự chết.  Bởi đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ đã chung phần với chiến thắng của Đức Ki-tô trên tội lỗi;  và qua việc Xác lên trời, Mẹ đã chung phần với chiến thắng của Đức Ki-tô trên sự chết.

Chúng ta đừng quên câu Kinh Thánh trong sách Sáng Thế đặt căn bản cho niềm tin của người Công Giáo về vai trò của Đức Ma-ri-a trong chương trình cứu rỗi nhân loại và về những đặc ân của Mẹ:  “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy” (3:15).  Chỗ khác trong tập sách nhỏ này đã cho chúng ta thấy vị trí sự chống đối là Đấng Cứu Thế cùng với Mẹ Ngài đứng một bên, còn Xa-tan cùng những kẻ theo chúng đứng một bên.  Rõ ràng chiến thắng của Đấng Cứu Thế và Mẹ Ngài trên Satan sẽ hoàn tất.

Vậy chiến thắng của Đức Ki-tô bao gồm những gì?  Thánh Gio-an nói: “Sở dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện, là để phá hủy công việc của ma quỷ” (1 Ga 3:8).  Và điều Ngài đến để thực hiện thì Ngài đã làm.  Đó chính là chiến thắng của Ngài.


Nhưng Đức Ki-tô đã đến để tiêu diệt công việc gì của ma quỷ?  Trước hết là tiêu diệt tội lỗi, nhưng cả những hậu quả của nó nữa, vì trong đó có sự chết.

Chiến Thắng Của A-đam Mới


Tân Ước đã nói như thế nào về chiến thắng của Đức Ki-tô?  Khi gặp Đức Ki-tô lần đầu tiên, Thánh Gio-an Tiền Hô đã tuyên xưng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1:29).  Và sự chết cũng sẽ bị tiêu diệt:  “Người (Thiên Chúa Cha) đặt mọi thù địch dưới chân Ngài (Đức Giê-su Ki-tô)…  và thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết” (1 Cr 15:25-26). “Tử thần đã bị chôn vùi.  Đây giờ chiến thắng.  Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi?  Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi?  Tử thần có nọc độc là vì tội lỗi... Nhưng tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giê-su Ki-tô” (54-57).

Mọi người được kêu gọi hãy tham dự vào chiến thắng của A-đam mới, và tất cả sẽ tham dự nhưng theo cách khác nhau.  Đó là lý do tại sao thánh Phao-lô lại viết cho tín hữu Rô-ma:  “Thiên Chúa là nguồn bình an, chẳng bao lâu nữa sẽ đè bẹp Xa-tan, bắt nó phải ở dưới chân anh em” (16:20).  Nhưng đâu là vai trò của Đức Ma-ri-a trong chiến thắng của Đức Ki-tô trên tội lỗi và sự chết?  Mẹ đóng vai trò quan trọng trong chiến thắng của Đức Ki-tô là điều không thể nghi ngờ, bởi vì Mẹ hiện diện trong lời hứa ban Đấng Cứu Thế như đấng đặc biệt liên kết với Đấng Cứu Thế đểø chống lại ma quỷ, thì cũng sẽ hiện diện như là Mẹ của Đấng chiến thắng ma quỷ.

Do đó cả tội lỗi lẫn sự chết sẽ không chiến thắng được Mẹ, vì chúng đã không thắng được Đức Ki-tô, con của ngài.  Điều này đúng với tất cả mọi tội lỗi, ngay cả với tội nguyên tổ là tội dù chúng ta không phạm nhưng đã lãnh chịu khi được sinh ra.  Mẹ đã được giữ gìn nhờ chiến thắng của đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội.  Cũng thế, chiến thắng của Mẹ trên sự chết được hoàn tất do việc Linh hồn và Xác lên trời.  Thực sự Mẹ đã chết, cũng như Con của Mẹ đã chết.  Nhưng không phải là cái chết mà Thánh Phao-lô gọi là “tiền công của tội lỗi” và là công việc của thần dữ – tức là một cái chết kéo dài qua sự mục nát trong mồ cho tới khi mọi người sống lại trong ngày sau hết.  Cái chết này là hình phạt bởi tội lỗi – một hình phạt đã không ảnh hưởng gì trên Mẹ.

Đúng thế, có một lý do tại sao thân xác của Đức Ma-ri-a lại không nằm lại trong mồ, và nếu chú ý suy xét về các lời giảng dạy, chúng ta sẽ thấy lý do này đã được nói đến trong Kinh Thánh.  Đó là một chân lý đã được Thiên Chúa mạc khải về chiến thắng của Đức Ki-tô trên Xa-tan cũng bao gồm cả chiến thắng trên tội lỗi và sự chết nữa.  Điều này được dạy dỗ rõ ràng trong Tân Ước.  Căn cứ vào lời hứa ban Đấng Cứu Thế trong sách Sáng Thế và qua lời loan báo Ngài sẽ đến cùng với việc ưng thuận của Đức Ma-ri-a trong chương đầu của sách Tin Mừng Lu-ca, chúng tôi cũng đã trình bày là Đức Ma-ri-a đặc biệt liên kết với Đấng Cứu Thế trong chiến thắng trên Xa-tan. Vậy chiến thắng của Ngài trên cái chết là gì nếu đó không phải là một phần của chiến thắng trên Xa-tan và trên tội lỗi?  Thêm nữa, cùng với chiến thắng của Đức Ki-tô, chiến thắng của Đức Ma-ri-a trên sự chết chắc chắn được Thiên Chúa mặc khải qua việc Linh hồn và Xác lên trời.

Đức Ma-ri-a Linh hồn và Xác lên trời


Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII đã viết ngắn gọn khi ngài long trọng công bố tín điều Đức Ma-ri-a Linh hồn và Xác lên trời:  “ Chúng ta phải đặc biệt nhớ rằng, từ thế kỷ thứ hai, Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã được các Thánh Giáo phụ tuyên xưng là E-và mới.  Mặc dầu phục tùng A-đam mới, Mẹ đã liên kết mật thiết với Ngài trong cuộc chiến chống lại kẻ thù hỏa ngục như đã được tiên báo trong tin mừng tiên khởi (St 3:15), và kết quả sau cùng là sự toàn thắng tội lỗi cùng cái chết đã được luôn nhắc đến trong các thư của vị Tông đồ Dân Ngoại (xem Rm 5 và 6).  Bởi đó, cũng như sự sống lại vinh hiển của Đức Ki-tô là một phần cốt yếu và là dấu chỉ cuối cùng nói lên chiến thắng này, thì việc Đức Trinh Nữ cùng với Con của ngài chống lại kẻ thù cũng phải được kết thúc qua việc thân xác trinh trong của ngài được vinh hiển.”

Như thế, người Công giáo có lý do chính đáng khi coi việc Đức Ma-ri-a Linh hồn và Xác lên trời là một sự kiện không thể chối cãi và không đối nghịch với quyền năng của chính Thiên Chúa.


Nên chú ý là chúng ta đang nói về việc Đức Ma-ri-a Linh hồn và Xác lên trời như một sự kiện – sự kiện đã được Thiên Chúa mạc khải và do đó là tín điều được khẳng định bởi quyền năng Thiên Chúa.  Đây không phải là một dữ kiện chỉ có tính cách lịch sử có thể thay đổi theo chứng cớ lịch sử.

Đừng quên là chính Thiên Chúa chứ không phải bởi tác động nào của nhân loại đã cho Đức Ma-ri-a được đem lên trời.  Cũng có thể việc Mẹ lên trời đã được thực hiện mà không có một ai chứng kiến.  Do đó sự kiện này không chỉ dựa vào uy tín của những người chứng hay những tài liệu ghi chép, nhưng dựa trên quyền bính của Giáo Hội Đức Ki-tô đã được Ngài ủy thác để giảng dạy cho muôn dân về chân lý mạc khải được bảo đảm do sự hướng dẫn của Ngài.  Chính Giáo Hội của Đức Ki-tô đã bảo đảm với chúng ta rằng Đức Ma-ri-a lên trời là sự kiện đã được Thiên Chúa mạc khải.

Không ai biết rõ việc Mẹ lên trời xảy ra ở đâu và khi nào.  Hoàn cảnh tương đối không quan trọng.  Nhưng quan trọng là chính sự kiện đã được Thiên Chúa Toàn Năng chấp nhận và mạc khải rõ ràng là từ các Tông Đồ truyền lại, bởi vì chỉ qua các ngài chúng ta mới có thể lãnh nhận một chân lý được mạc khải.

Tuy nhiên, điều này nhất thiết không có nghĩa là tất cả hoặc một Tông đồ nào đó đã được chứng kiến sự kiện xảy ra.  Nếu không có một vị nào được chứng kiến, thì các ngài sẽ  không thể biết chắc được nếu Thiên Chúa không cho biết chắc chắn.  Mặc dù ngôi mộ của Đức Ma-ri-a được tìm thấy trống rỗng chẳng bao lâu sau khi ngài mất, thì vẫn có thể thân xác Mẹ đã được rời đi đến một nơi không ai biết.  Vậy nếu chẳng một vị Tông đồ nào được chứng kiến, thì chỉ có sự can thiệp của Thiên Chúa mới có thể làm cho các ngài được biết chắc chắn mà chấp nhận và giảng dạy về việc Đức Mẹ Linh hồn và Xác lên trời.

Vào ngày 1 tháng 11 năm 1950, khi Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII long trọng tuyên xưng cho thế giới  “Mẹ Vô Nhiễm của Thiên Chúa, Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, đã được lên trời vinh hiển cả xác hồn”, ngài đã chẳng giảng dạy điều gì mới, hoặc nói về một sự thật chưa từng nghe, nhưng ngài chỉ đề cao một sự thật rất quen thuộc và đoan chắc rõ ràng với toàn thể Giáo Hội rằng những gì chúng ta đã tin về việc Linh hồn và Xác Đức Ma-ri-a lên trời đã thực sự được Thiên Chúa mạc khải.

Tại sao vào năm 1950 Đức Giáo Hoàng lại sử dụng phương thức định tín để nhắc cho thế giới chú ý đến việc linh hồn và xác lên trời của Đức Ma-ri-a?  Chính ngài đã cho biết lý do:  “Việc long trọng tuyên xưng Đức Mẹ Linh hồn và Xác lên trời sẽ đem lại lợi ích không nhỏ cho xã hội con người vì nó biểu dương vinh quang Thiên Chúa.  Hy vọng lòng kính mến Đức Ma-ri-a sẽ được khơi dậy hơn và tất cả những ai được vinh dự mang danh Ki-tô hữu sẽ được thêm lòng ao ước chia sẻ trong tình hiệp nhất với Nhiệm Thể Đức Ki-tô và được thêm lòng yêu mến Mẹ là Đấng luôn tỏ lòng hiền mẫu đối với các chi thể của Nhiệm Thể đó trong mọi việc.  Và chúng tôi hy vọng rằng những ai suy niệm về gương vinh hiển Đức Ma-ri-a ban cho chúng ta sẽ càng ngày càng xác tín hơn về giá trị của một cuộc đời đã được tận hiến để thi hành thánh ý Cha trên trời và đem lại lợi ích cho tha nhân.  Sau hết, chúng tôi hy vọng rằng niềm tin vào sự lên trời cả hồn xác của Đức Ma-ri-a sẽ làm cho niềm tin vào sự sống lại của chính chúng ta được mạnh mẽ và hữu hiệu hơn.”

Đức Ma-ri-a


           “Từ muôn đời, Đức Nữ Trinh đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc nhập thể của Ngôi Lời Thiên Chúa, và theo chương trình của Chúa Quan Phòng, Ngài trở nên Mẹ cao trọng của Đấng Cứu Chuộc thần linh trên trần gian, và cách đặc biệt hơn mọi người khác, Ngài là cộng sự viên quảng đại và tôi tá khiêm tốn của Chúa.  Vì đã cưu mang sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa Ki-tô, đã dâng Chúa Ki-tô lên Chúa Cha trong đền thánh và cùng đau khổ với Con mình chết trên thập giá, Đức Ma-ri-a đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Đấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn.  Bởi vậy, trên bình diện ân sủng, Ngài thật là Mẹ chúng ta.”

Công Đồng Va-ti-ca-nô II
Hiến chế Tín lý về Giáo Hội (số 61)

Nguyễn Việt Hữu, chuyển ngữ

Samstag, August 04, 2012

(L'Osservatore Romano ngày 26.09.2000)
Năm Thánh của Chúa Con cũng là Năm Thánh của Mẹ

Trong buổi sáng ngày Chúa Nhật 24.09.2000, Ðức Giáo Hoàng Gio-an Phao-Lồ Ðệ Nhị đã chủ toạ Thánh Lễ tại công trường Thánh Phê Rô để bế mạc Hội Nghị Quốc Tế thứ 20 về Maria Học và Năm Thánh thế giới của những Vương Cung Thánh Ðường Tôn Kính Mẹ Maria, được diễn ra từ ngày 15 đến 20 tháng 9 năm 2000 ở Vương Cung Thánh Ðường Tình Yêu Thiên Chúa, gần thành phố La-Mã. Trong buổi Lễ, Ðức Thánh Cha đã đọc bài giảng mà chúng tôi trích sau đây một đoạn. Bài giảng trọn vẹn sẽ được đăng trong số tới :
Trong lúc diễn biến của Hội nghị về Thánh Mẫu Học, quý vị đã hướng mắt nhìn về những đại sự mà Mẹ Maria đã thực hiện, bằng cách suy gẫm về chiều hướng nội tại và thâm sâu nhất, chiều hướng của sự tương giao đặc biệt giữa Mẹ Maria với Thiên Chúa Ba Ngôi. Nếu Mẹ Maria là Theotokos , Mẹ của Chúa Con duy nhất của Thiên Chúa, làm sao chúng ta lại ngạc nhiên khi thấy Ngài được hưởng sự liên hệ cách đặc biệt với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần ? Mối liên hệ này tuy không làm cho Mẹ tránh khỏi được những mệt nhọc của thân phận con người trong suốt cuộc đời của Ngài trên trần thế : Mẹ Maria sống trọn vẹn thực tại của của cuộc sống trần gian như biết bao nhiêu gia dinh tầm thường cùng thế hệ với Ngài. Ngài đã biết thế nào là sự nghèo túng, sự đau khổ, sự trốn tránh, sự lưu vong, thế nào là bị kẻ khác hiểu lầm. Sự cao trọng của đời sống tâm linh của Ngài cũng không làm Ngài cách xa chúng ta : Mẹ đã đi qua đoạn đường của chúng ta, Mẹ đã liên đới với chúng ta trong cuộc hành hương của Ðức Tin (Lumen Gentium, Ánh sáng của Lương Dân, số 58). Nhưng trên con đường nội tâm này, Mẹ Maria đã trau dồi sự chung thủy tuyệt đối với Thánh Ý của Chúa. Ðúng thế, trong sự chung thủy khôn dò này cũng được ăn sâu sự cao trọng khôn thấu khiến Mẹ trở thành khiêm tốn và trổi vượt hơn hết mọi tạo vật (Dante, đoạn XXXIII, 2)[.] Trước mầu nhiệm của ân sủng này, chúng ta thấy là hai biến cố mà Thánh Lễ hôm nay đã kết luận đã được thích ứng cách tuyệt hảo với năm thánh : Ðại Hội Quốc Tế về Thánh Mẫu a Học và Năm Thánh thế giới của những Vương Cung Thánh Ðường Mẹ Maria. Không phải là chúng ta đang thực sự mừng 2000 năm ngày Giáng Sinh của Chúa Ki Tô hay sao ? Như thế Năm Thánh của Chúa Con cũng phải là Năm Thánh của Mẹ chỉ là một điều tự nhiên.
Sau Thánh Lễ, Ðức Thánh Cha đã đọc kinh Thiên Thần truyền tin cho Ðức Mẹ :
1. Trước khi kết thúc Thánh Lễ năm thánh Mẹ Maria ngày hôm nay, tôi ao ước gửi lời cám ơn thân tình đến tất cả anh chị em rất quý mến đã tụ tập nơi đây từ khắp nơi trên thế giới. Giữa nhiều phái đoàn Ý Ðại Lợi, Tôi kính chào cách đặc biệt phái đoàn của Hội Ðoàn Thánh Mẫu Học và những phái đoàn của tất cả những vương cung Thánh Ðường, mà nổi bật nhất là hai phái đoàn của thành phố Lorette và Pompéi (thuộc nước Ý).
Tôi gửi tiếp lời chào đặc biệt đến những công dân của nước Lecce : đến nhiều nhóm khách hành hương đang hiện diện và đến tất cả những ai đã theo dõi chúng tôi cách trực tiếp từ công trường trung tâm thành phố. Tôi xin cám ơn tất cả anh chị em cho những tiền quyên giúp cho Ðại Hội và sự đóng góp quảng đại của anh chị em cho sự kiến trúc lại vương cung thánh đường La Vang ở Việt Nam.
Tôi cũng xin chào tất cả những người nói tiếng Pháp tham dự vào Kinh Truyền Tin, đặc biệt là những thành viên của Ðại Hội Quốc Tế về Thánh Mẫu Học. Lời kinh nguyện của tôi hướng về tất cả những tín hữu tụ họp trong những vương cung thánh đường Mẹ Maria, để phó thác cho Ðức Mẹ, đặc biệt ở Lộ Ðức, Banneux, Lavang, Poponguine. Tôi cũng xin chia sẻ niềm vui của điạ phận Puy-en-Velay (nước Pháp), địa danh của nơi hành hưong kính Mẹ Maria, sẽ đón tiếp Ðại Hội về Thánh Mẫu Học kỳ tới.
2. Các bạn quý mến, trong bầu không khí sâu đậm của lòng sùng kính Mẹ Maria, chúng ta hãy cùng nhau đọc kinh Truyền Tin. Chớ gì Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể giúp mỗi người chúng ta biết cộng tác cách quảng đại vào công trình Cứu Rỗi.
Trần Văn Toàn , Ba-Lê 27.09.2000

Freitag, August 03, 2012

“Này là Mẹ con” (Gioan 19, 27)
Gm Giuse Võ Đức Minh
Thánh Gioan là tác giả Phúc Âm duy nhất ghi lại sự hiện diện của Đức Maria, Thân mẫu của Chúa Giêsu ở bên thập giá của Người. Và khi nghiên cứu cặn kẽ toàn bộ tác phẩm của Gioan, chúng ta sẽ thấy một sự tương đồng khá nổi bật giữa câu chuyện tiệc cưới ở Cana (Ga 2,1-11) và câu chuyện dưới chân thập giá ở Gò Sọ (Ga 19,25-27).
Tại tiệc cưới ở Cana cũng như tại Gò Sọ, khi viết về Đức Maria, thánh Gioan cho ta thấy có ba yếu tố đặc biệt này:

Cana
ở Gò Sọ
Tiệc cưới Cana, có Mẹ Đức Giêsu (Mater Jesu)
đứng bên khổ giá Đức Giêsu ở đó có mẹ Ngài (Mater ejus)
Này bà (Mulier)
này bà (Mulier)
Giờ của tôi (Hora mea) chưa đến!
Từ giờ đó (hora)…

Như thế, câu chuyện Đức Maria hiện diện bên chân thập giá rất có thể có liên hệ mật thiết với câu chuyện Đức Maria hiện diện ở tiệc cưới Cana. Và theo cung cách trình thuật của Gioan, ta có thể xem: câu chuyện ở Cana là dấu chỉ; câu chuyện ở Gò Sọ là hiện thực điều mà dấu chỉ đã báo trước.
Ngoài ra, một chi tiết không kém quan trọng giúp ta xác định vai trò của đọan này trong trình thuật về cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu, đó là ở Ga 19, 28, thánh Gioan viết:
“Sau đó, Đức Giêsu biết rằng mọi sự đã hoàn tất…” có nghĩa là: sau việc đó,
Như vậy, từ ngữ “sau đó” diễn tả mối tương quan mật thiết giữa một việc sắp xảy ra với một việc vừa xảy ra. Và việc sắp xảy ra lại là lời tuyên bố của Chúa Giêsu: “Đã hoàn tất”.
Từ đó, ta phải hiểu rằng lời trối của Đức Giêsu trong đoạn này chính là hành vi cuối cùng của Chúa, và là một hành vi có ý nghĩa trong công việc cứu thế của Người. Hành vi cuối cùng này đã thực hiện trong giờ của Người.
“Đứng bên khổ giá Đức Giêsu, có Mẹ Ngài và người chị em của mẹ Ngài, Maria (vợ) của Clôpa, và Maria người Magđala”.
Việc ghi thêm tên Chúa Giêsu sau chữ khổ giá có ý nhấn mạnh: đây là khổ giá của Chúa Giêsu! Điều này cho ta thấy không những Thân mẫu của Ngài và những phụ nữ kia đứng bên cạnh khổ giá (nghĩa về nơi chốn) mà còn kết hợp tham dự vào khổ giá của Ngài (nghĩa tinh thần).
Một vấn đề khác được các nhà chú giải quan tâm, là có mấy người đứng bên khổ giá của Chúa: ba hay bốn người nữ?
Một số tác giả và ngay cả bản dịch Vulgata thì cắt nghĩa là ba người: Mẹ Ngài, người chị em của Mẹ Ngài (có tên là) Maria (vợ của Clôpa) và Maria người Magđala.
Thế nhưng, hiện nay hầu như tất cả đều hiểu là có 4 người: Mẹ Ngài, người chị em của Mẹ Ngài, Maria (vợ) của Clôpa, Maria người Magđala, vì hai người sau được nêu đích danh và được xác định rõ ràng.
“Vậy Đức Giêsu thấy Mẹ Ngài,
và môn đồ Ngài yêu mến đứng bên cạnh,
thì Ngài nói với Mẹ: “Hỡi bà, này là con bà!”
Đoạn lại nói với môn đồ: “Này là Mẹ con!”
Căn cứ trên cấu trúc của đoạn này, ta có thể phân tích như sau:
1/ Cả hai lời trối được đặt song song với nhau. Nếu chỉ là lời trối có tính chất ký thác, giao phó Mẹ lại cho người môn đệ chăm sóc (chữ hiếu), thì chỉ cần nói với môn đệ là đủ: “Này là Mẹ con!” Nhưng ở đây lại có thêm lời trối cho Thân mẫu của Ngài, thì chắc hẳn không phải là lời ký thác, nhưng phải mang một ý nghĩa nào nữa.
2/ Trong lời trối này, Đức Giêsu đã nói với Thân mẫu Ngài trước, điều đó cho thấy chủ ý của Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sứ mạng quan trọng mà Thân mẫu Ngài sẽ phải đảm nhận, khác với sứ mạng của người môn đệ.
3/ Hướng về Thân mẫu Ngài, Đức Giêsu đã nêu lên một danh hiệu: “Hỡi bà!”, “Thưa bà” (gynai, Mulier). Và đây là một danh hiệu rất quan trọng (cf Kn 3,20.23 : Eva (gynê).
4/ Thánh Gioan viết: Mẹ Ngài đứng bên khổ giá Đức Giêsu; còn người môn đệ lại đứng bên cạnh Thân mẫu của Ngài. Như thế, Đức Maria có mối tương quan trực tiếp với khổ giá Đức Giêsu, còn người môn đệ thì có tương quan với Đức Maria; Đức Maria đứng dưới bóng khổ giá, còn người môn đệ đứng dưới bóng Đức Maria!
5/ Mạch văn đoạn này của Gioan hoàn toàn là một sơ đồ văn chương diễn tả sự mạc khải:
– khởi đầu bằng động từ: thấy
– tiếp theo là động từ: nói
kèm theo theo công thức: Này là … Này là
– sau cùng là xác định cụ thể con người và sự mạng phải đảm nhận: Con của bà ! – Mẹ của con !
Đây là công thức mạc khải mà Thánh Kinh thường sử dụng: cf Is 49,18; 60,4 - Ba 4,36; 5,5 - Ez 1,4; 37,8 - Dn 2,31
Trong Phúc Âm thứ tư, chúng ta con gặp thấy những ví dụ tương tự:
– (trường hợp Gioan Tẩy Giả)
1,29:    “Hôm sau, ông thấy Đức Giêsu đến với ông, thì ông nói:
            Này là Chiên của Thiên Chúa, Đấng khử trừ tội của thế gian …
1,36:    “Ông ngó về phía Đức Giêsu đang ngang qua, mà nói:
            Này là Chiên của Thiên Chúa”
 (trường hợp của Chúa Giêsu)
1,47:    “Đức Giêsu thấy Nathanael đến với Ngài,
            thì Ngài nói về ông: Này đây đích thật một người Israel,
            trong mình không có gian dối”
Phân tích các bản văn này cho thấy cả Gioan Tẩy Giả cũng như Chúa Giêsu đã mạc khải cho mọi người biết một điều từ trước đến nay vẫn chưa ai thấu hiểu được. Gioan thấy Đức Giêsu, thì mạc khải cho mọi người biết Ngài là Đấng Mêsia, tức là Chiên của Thiên Chúa. Đức Giêsu thấy Nathanael, thì mạc khải cho mọi người biết con người đích thật của ông.
Trở lại đoạn văn Ga 19,25-27 này, chúng ta có: Đức Giêsu từ trên khổ giá thấy Mẹ Ngài và môn đệ Ngài yêu dấu đứng bên cạnh, thì Ngài đã mạc khải cho mọi người biết sự mạng của mỗi người, sứ mạng mà từ trước đến nay chưa ai thấu hiểu được. Đức Giêsu mạc khải cho biết vai trò của Đức Maria kể từ lúc này là Mẹ đối với người môn đệ; và người môn đệ kể từ lúc này là con đối với Đức Maria.
Như thế, ta không nên giải thích lời trối của Đức Giêsu ở đây như là một cử chỉ hiếu thảo của một người con sắp lìa trần đối với mẹ ruột của mình!
6/ Công thức “Môn đệ Ngài yêu mến”. Căn cứ theo truyền thống, người môn đệ này chính là Gioan, tác giả Phúc Âm thứ tư.
Nhưng công thức này còn có thể cho ta hiểu thêm nội dung nào nữa không ?
Tác giả Phúc Âm thứ tư có khuynh hướng khi đề cập đến những con người mà không nêu đích danh, là nhằm trình bày ‘những mẫu người’, những con người tiêu biểu của từng giới, hoặc từng hạng người. Từ đó, Gioan không có ý nói người môn đệ Chúa yêu mến để nhằm chỉ một người nhất định, nhưng để chỉ bất cứ ai được hưởng tình yêu của Ngài, được trở nên đối tượng tình yêu của Ngài. Vì thế, người môn đệ này chính là mẫu của mọi người môn đệ của Chúa Giêsu. Từ nay, Chúa Giêsu giao phó người môn đệ cho Đức Maria chăm sóc và Đức Maria trở nên người mẹ mới của người môn đệ. Tình mẫu tử mới này sẽ là tình mẫu tử thiêng liêng dựa trên căn bản của lời trối của Chúa Giêsu trên thập giá. Vì thế, nền tảng của mối quan hệ mẫu tử mới giữa Đức Maria và người môn đệ Chúa yêu phải được xây dựng trên sự từ bỏ. Đức Giêsu sắp từ bỏ mạng sống mình để hoàn thành công việc cứu độ và lời trối này là hành vi cuối cùng của Đức Giêsu. Đức Maria cũng sắp từ bỏ người Con theo huyết nhục của mình, vì người Con này sắp tắt thở. Chữ “Hỡi bà” như kéo Đức Maria ra khỏi sự đau đớn theo nghĩa xác phàm, khác nào lưỡi gươm đâm vào trái tim huyết nhục của Người. Người được mời gọi phải thông phần với Đức Giêsu sắp từ bỏ mạng sống mình mà về cùng Cha, để từ nay Người không còn sống trong huyết nhục nữa. Rõ ràng, Đức Maria phải chết đi, phải từ bỏ tư cách là Mẹ theo nghĩa huyết nhục. Do đó, tình mẫu tử mới được thực hiện bằng sự từ bỏ, bằng việc chết đi cho con người cũ của mình.
Cũng thế, người môn đệ Chúa yêu đón nhận lời trối này cũng phải sống trong sự từ bỏ, mà việc từ bỏ cái tên cũ của mình có thể là một dấu chỉ. Gioan, con của bà Zêbêđê đã một lần từ bỏ người mẹ ruột của mình khi muốn làm một đệ của Chúa Giêsu. Do đó, tại đây, ở bên khổ giá của Chúa Giêsu, không lý gì là Chúa lại muốn Gioan có thêm một người mẹ theo nghĩa thông thường nữa, như thể kéo Gioan trở lại sống mối tương quan mẹ con như trước khi đi theo Chúa Giêsu! Vì thế, người môn đệ Chúa yêu, nhờ hành vi từ bỏ này, mà được trở nên con người mới, con người được tái sinh nhờ sự từ bỏ mạng sống mình của Chúa Giêsu, nhờ cái chết của Chúa Giêsu.
Những phân tích trên làm nổi bật tính chất hết sức thiêng liêng của lời trối. Đức Maria từ nay trở nên Mẹ và là Mẹ thiêng liêng của người môn đệ Chúa yêu, Mẹ của các thế hệ môn đệ của Chúa Giêsu; vì bất cứ ai tin và đi theo Chúa Giêsu, đều trở nên người môn đệ Chúa yêu. Và người môn đệ đó được diễm phúc gọi Đức Maria là Mẹ của mình.
Tóm lại, lời trối này của Chúa Giêsu có một ý nghĩa quan trọng trong công cuộc cứu thế của Ngài. Từ trên thập giá, từ cái chết của mình, Chúa Giêsu thiếp lập và trao ban sự sống mới mà Đức Maria được diễm phúc trở nên “bà”, trở nên Mẹ của tình mẫu tử mới, tình mẫu tử thiêng liêng. Tất cả môn đệ của Chúa Giêsu –tức là những ai tin và đi theo Chúa Giêsu– kể từ nay được đặt làm con của Đức Maria, con không theo nghĩa huyết nhục, nhưng là con thiêng liêng. Và đó chính là hành vi cao cả bộc lộ tình yêu mà Chúa Giêsu đã dành cho người môn đệ: Ngài đã yêu thương họ và yêu thương cho đến cùng (Ga 13,1).
Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu, nhờ lời trối này, đã trở nên Mẹ của các tín hữu; và người môn đệ Chúa yêu chính là khuôn mặt của người môn đệ lý tưởng, người tín hữu lý tưởng của mọi thế hệ Kitô hữu.
“Và từ giờ đó, môn đệ đã lãnh lấy bà về nhà mình”
Đứng trước thập giá của Chúa Giêsu, chứng kiến cái chết của Người và hiểu được Lời trối thiêng liêng đó, người môn đệ đã lãnh lấy Đức Maria, người Mẹ thiêng liêng của mình mà Chúa Giêsu vừa mạc khải cho biết, để Mẹ Maria trở nên thực sự là của mình, là Đấng không thể thiếu được trong đời sống của mình; bởi vì, trong đời sống mới, thiêng liêng, Người là Mẹ của những ai mang danh là môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến.
 
Gm Giuse Võ Đức Minh