Trang chủ

Montag, Dezember 31, 2012

Ngày 1 tháng 1
LỄ ĐỨC MẸ MA-RI-A - MẸ THIÊN CHÚA
 
Lm. Giuse Maria Nhân Tài,  csjb.    12/30/2012
 

Tin Mừng: Lc 2, 16-21.
“Các người chăn chiên gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se và Hài Nhi. Được đủ tám ngày, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su”.
Anh chị em thân mến,
Công đồng Ê-phê-sô (năm 431) đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Mẹ Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa, để tôn vinh Thiên Chúa là Đấng đã chọn Đức Mẹ Ma-ri-a làm mẹ của Đấng cứu thế là Đức Chúa Giê-su, và đồng thời đề cao vai trò của Mẹ trong trong việc đồng công cứu chuộc loài người với Đức Chúa Giê-su.

1. Đức Chúa Giê-su- Thiên Chúa làm người.
Đức Chúa Giê-su là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, sinh bởi cung lòng trinh nữ Ma-ri-a, do đó Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là người như chúng ta, chính Ngài là Đấng Mes-si-a mà muôn dân trông đợi, là Đấng mà các tiên tri đã loan báo là Đấng sẽ đến để cứu nhân loại khỏi bóng đêm tội lỗi. Chính Ngài trong bản tính Thiên Chúa thì là Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Chúa Cha và Đức Chúa Thánh Thần, và trong bản tính nhân loại Ngài là con của Đức Trinh nữ Ma-ri-a mà công đồng Ni-xê-a đã long trọng tuyên bố xác tín, và mỗi ngày chúa nhật hay lễ trọng, chúng ta đều tuyên xưng trong thánh lễ khi chúng ta cùng nhau đọc kinh Tin Kính.

Đức Chúa Giê-su là Đấng mà thánh Gioan Tiền Hô đã nói: “Ngài đến sau tôi nhưng có trước tôi” (Ga 1, 30b), cũng có nghĩa là với bản tính loài người thì Đức Chúa Giê-su sinh sau thánh Gioan Tiền Hô, nhưng với bản tính Thiên Chúa thì Ngài đã có trước thánh Gioan Tiền Hô. Và như thánh Gioan tông đồ đã xác quyết: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa , và Ngôi Lời là Thiên Chúa”.(Ga 1, 1) ngài đã xác tín Đức Chúa Giê-su là Ngôi Lời tức là Thiên Chúa.

Như vậy, với các chứng cớ xác thực trên thì Đức Chúa Giê-su là Thiên Chúa thật và là người thật, ngài thật sự là con của Đức Trinh nữ Ma-ri-a, do đó Đức Mẹ Ma-ri-a là mẹ của Đức Chúa Giê-su và cũng là Mẹ Thiên Chúa và là người mẹ tuyệt vời của chúng ta.

2. Đức Mẹ Maria – Mẹ Thiên Chúa
Không ai thấy được Thiên Chúa bao giờ, nhưng việc giáng sinh của Đức Chúa Giê-su là một hồng phúc cho nhân loại, vì qua Ngài mà nhân loại thấy được Thiên Chúa không thể thấy, qua Ngài chúng ta thấy được tình yêu trọn vẹn mà Thiên Chúa đã giành cho nhân loại chúng ta.

Đức Mẹ Ma-ri-a là mẹ thật của Đức Chúa Giê-su, cho nên Mẹ cũng là Mẹ Thiên Chúa, như lời tiên tri I-sai-a đã loan báo: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. (Is 7, 14) Đấng Em-ma-nu-en ấy chính là Đức Chúa Giê-su đã được Đức Trinh nữ Ma-ri-a sinh hạ trong hang lừa máng cỏ tại Bê-lem. Chỉ có làm Mẹ Thiên Chúa, Đức Mẹ Ma-ri-a mới ghi nhớ trong lòng những mầu nhiệm mà Thiên Chúa đã thực trên con người của Mẹ, và nhất là nơi những lời nói và việc làm của Đức Chúa Giê-su như lời thánh Lu-ca đã viết: “Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”. (Lc 2, 19)

3. Đức Mẹ Ma-ri-a – Mẹ của chúng ta
Thánh Gioan tông đồ, người đã tận mắt chứng kiến cái chết của Đức Chúa Giê-su đã tường thuật lại: “Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con cùa Bà”, rồi Người nói với môn đệ (thánh Gioan tông đồ): “Đây là mẹ của anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình. (Ga 19, 26-27)

Mỗi người trong chúng ta ai cũng có một người mẹ sinh ra mình, nhưng chúng ta lại càng diễm phúc hơn khi có một người mẹ trên trời hằng yêu thương chăm sóc chúng ta, đó là Đức Mẹ Ma-ri-a. Mẹ không những là mẹ mà còn là Đấng cầu bàu cho chúng ta rất có thần thế trước mặt Thiên Chúa. Do đó, chúng ta hãy luôn tin tưởng và phó thác cuộc sống của mình cho Mẹ, bởi vì ngay khi chúng ta còn là tội nhân thì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, huống hồ là Đức Mẹ Ma-ri-a, với tấm lòng người mẹ, nhất định Mẹ sẽ không bao giờ để con cái mình phải bơ vơ đau khổ ở đời này.

Anh chị em thân mến,
Mừng kính lễ Đức Mẹ Ma-ri-a – Mẹ Thiên Chúa, là chúng ta trân trọng công việc đồng công cứu chuộc loài người nơi Mẹ, là chúng ta tôn vinh Mẹ là nữ tỳ khiêm hạ được Thiên Chúa tôn lên làm Mẹ của Ngài, là kho tàng mọi ân sủng của Thiên Chúa.

Mừng kính lễ Mẹ Thiên Chúa, chúng ta phải luôn học hỏi các gương lành của Mẹ, nhất là nhân đức khiêm tốn và vâng phục, chính hai nhân đức này mà Thiên Chúa đã nhắc Mẹ lên tận trời cao, trên các thiên thần, và ưu ái đặt Mẹ làm Mẹ Thiên Chúa và mẹ của chúng ta.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Nguồn: http://www.vietcatholic.net/News/Html/101920.htm

Samstag, Dezember 29, 2012

Lễ thánh gia thất: Yêu mến và thực thi thánh ý chúa
Lm. Tôma Nguyễn Văn Hiệp  12/29/2012

CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT (Hc 3,3-7.14-17a; Cl 3,12-21; Lc 2,22-40)

Kỷ niệm 5 năm, 10 năm, 20 năm, 25 năm … Hôn phối

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ, cách riêng các đôi vợ chồng kỷ niệm 5 năm, 10 năm, 20 năm, 25 năm … hôn phối.

Hôm nay, toàn thể Giáo Hội mừng kính một gia đình cực thánh là mẫu gương cho mọi gia đình ở mọi thời đại. Các bài đọc phụng vụ hôm nay đều nói đến đời sống gia đình:

Bài đọc I (Hc 3,3-7.14-17a): Sách Huấn ca nói đến bổn phận của con cái là thảo kính cha mẹ. Đó là điều Thiên Chúa muốn.

Bài Tin Mừng (Lc 2,22-40): Thánh sử Luca trình thuật lại việc Thánh Giuse và Đức Maria dâng Đức Giêsu trong Đền thờ theo như luật Chúa dạy.

Bài đọc II (Cl 3,12-21): trong thư Côlôxê, thánh Phaolô dạy mọi người trong gia đình: “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3,17). Có như thế, gia đình mới có bình an thật sự của Đức Kitô.

Như thế, chúng ta có thể rút ra từ Lời Chúa hôm nay một bài học: muốn có hạnh phúc đích thực thì mỗi chúng ta phải biết yêu mến và thực thi thánh ý Thiên Chúa.

Người Đông phương có một câu chuyện ngụ ngôn rất hay cho chúng ta thấy cuộc sống với muôn màu buồn vui lẫn lộn. Có những điều ta cứ nghĩ đấy là niềm vui, là hạnh phúc, nhưng cuối cùng đó lại là nguyên nhân đưa đến một nỗi buồn, một mối họa và ngược lại. Chúng ta không thể lý giải cuộc đời bằng suy nghĩ thường tình của con người. Xin được kể câu chuyện “Phú ông mất ngựa” mà có lẽ quí ông bà và anh chị em đã từng nghe.

Có một Phú ông mất một con ngựa cái. Hàng xóm đến chia buồn. Ông bảo: chưa chắc đó là chuyện buồn! Mấy ngày sau ngựa cái trở về dẫn theo một con ngựa đực quí. Hàng xóm đến chia vui. Ông bảo: chưa chắc là chuyện vui! Một tuần sau đứa con trai cỡi ngựa quí bị té gãy chân. Hàng xóm đến chia buồn. Ông bảo: chưa chắc là chuyện buồn! Một tháng sau có giặc giã. Con ông không phải đi quân dịch. Những người con trai trong làng đều phải bỏ mạng nơi chiến trường, còn con ông thì sống bình an với gia đình…

Câu chuyện ngụ ngôn như cho chúng ta một kết luận: cuộc đời là một huyền nhiệm, bởi đó phải luôn biết bằng lòng với cuộc sống và sống hết mình với giây phút hiện tại. Nhưng đâu là điểm qui chuẩn để chúng ta dựa vào đấy mà sống đúng, sống tốt giây phút hiện tại, để có được hạnh phúc đích thực?

Chiêm ngắm Thánh Gia, chúng ta như khám phá ra một điều: Gia đình ấy bao gồm ba con người bằng xương bằng thịt, cũng chịu nhiều cám dỗ và nhiều gian nan thử thách như chúng ta mọi đàng. Nhưng ba con người ấy lại vượt qua tất cả làm nên một gia đình cực thánh đó là: Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse.

Gương mẫu thứ nhất là Chúa Giêsu. Ngài đã xuống thế gian bởi vì yêu mến và thi hành thánh ý Chúa Cha. Ngài yêu mến Chúa Cha một cách trọn vẹn bằng lòng chấp nhận mang thân phận yếu hèn của kiếp người, làm con của một gia đình nghèo khổ, sinh ra nơi hang bò lừa giữa cánh đồng đêm đông buốt giá. Có thể tóm lại một câu: cả cuộc đời Chúa Giêsu là sự yêu mến và thực thi thánh ý Chúa Cha mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Cho dẫu Ngài phải chứng diện với những cơn cám ngọt ngào, điển hình là nơi hoang địa khi bắt đầu cuộc đời công khai (x. Mt 4,1-11; Mc 1,12-13; Lc 4,1-13) và nhất là trước cái chết nơi vườn Dầu, Ngài đã phải thốt lên đến ba lần: “Lạy Cha, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con, nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26, 39). Chính vì yêu mến và thực thi thánh ý Chúa Cha mà Chúa Giêsu đã đón nhận cái chết trên thập giá, để hoàn tất công trình cứu độ, đem lại sự sống mới cho nhân loại.

Mẫu gương thứ hai là Mẹ Maria. Vì yêu mến Thiên Chúa mà Mẹ đã thốt lên hai tiếng “xin vâng” trong ngày sứ thần truyền tin và cả cuộc đời Mẹ là sự liên lỉ vâng theo thánh ý Thiên Chúa cho dù giữa bao nghịch cảnh của cuộc đời. Bài Tin Mừng hôm nay đã minh chứng điều ấy. Mẹ thực thi thánh ý Thiên Chúa bằng việc thi hành lề luật: dâng con và dâng lễ vật. Cho dẫu gia đình rất nghèo nên chỉ dâng một đôi chim câu là lễ vật của người nghèo thời bấy giờ. Có lẽ chúng ta cho đấy là bình thường, nhưng nếu so sánh với nhiều gia đình nghèo ngày nay đã bỏ nhà thờ, bỏ đọc kinh xem lễ, để chọn những công việc bất chính để có nhiều tiền, … thì chọn lựa của Đức Mẹ là một chọn lựa phi thường. Mẹ vẫn bình thản phó thác khi nghe lời tiên báo của ông già Simêon về nỗi đau của Mẹ “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.” (Lc 2,35). Dưới chân thánh giá, như có một lưỡi gươm xé nát tâm hồn Mẹ trước cái chết tức tưởi của người con dấu yêu. Có nỗi đau nào sánh ví! Thế mà Mẹ vẫn thinh lặng, vâng phục và phó thác cho Thiên Chúa.

Mẫu gương thứ ba là thánh Giuse. Kinh Thánh không ghi lại một lời nào của thánh nhân. Cả cuộc đời ngài là chuỗi dài âm thầm, yêu mến và thực thi thánh ý Thiên Chúa dẫu gian nan vất vả, có cả sự hiểm nguy. Ngài bỏ ngay ý định rời bỏ Đức Mẹ khi được thiên thần báo mộng (Mt 1, 24). Đang đêm Ngài đưa Đức Mẹ và Chúa Giêsu trốn sang Ai Cập không một lời thắc mắc với sứ thần (Mt 2,14). Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy thánh Giuse thực thi thánh ý Thiên Chúa bằng lòng mến, vượt lên trên cả những đòi hỏi của lề luật. Luật chỉ đòi buộc người mẹ thanh tẩy sau khi sinh (Lv 12, 1-8), nhưng thánh Giuse cũng có mặt trong “ngày lễ thanh tẩy” vì yêu mến Thiên Chúa và yêu mến gia đình. Ngài đã chu toàn trách nhiệm mà Thiên Chúa đã trao phó trong việc nuôi dưỡng Chúa Giêsu đến nỗi người ta gọi Chúa Giêsu là “con bác thợ mộc” (Mc 6,3).

Qua việc chiêm ngắm Thánh Gia, chúng ta nhận thấy Thánh Gia nghèo và có lẽ nghèo hơn đa phần các gia đình nghèo trong giáo xứ chúng ta. Thánh Gia cũng gặp nhiều gian nan thử thách không kém những gian nan thử thách mà các gia đình chúng ta thường gặp. Tuy nhiên, Thánh Gia luôn có bình an và hạnh phúc đích thực vì luôn biết mến yêu và thực thi thánh ý Thiên Chúa. Đây là điều mà Giáo hội mời gọi mọi gia đình noi gương Thánh gia qua thánh lễ hôm nay.

Chính tình yêu là động lực thúc đây Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse thực thi thánh ý Thiên Chúa trong suốt hành trình dương thế. Cũng thế, nếu mỗi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thật sự, ắt hẳn chúng ta sẽ luôn thực thi thánh ý Thiên Chúa trong từng phút giây của cuộc sống. Chúng ta sẽ giữ luật Thiên Chúa và đến nhà thờ với một thái độ và tâm tình thờ phượng thật sự, sẽ không có chuyện ăn mặc lôi thôi hay ngồi ngoài nhà thờ. Chúng ta sẽ cử hành giờ kinh trong gia đình thật sốt sắng, sẽ không có chuyện đọc kinh cách qua loa chiếu lệ. Nhờ yêu mến Thiên Chúa mà chồng sẽ yêu thương vợ, vợ tôn trọng và mến yêu chồng; cha mẹ sẽ chu toàn bổn phận yêu thương và giáo dục con cái; con cái sẽ thảo hiếu với cha mẹ và bề trên… vì đó là những điều Thiên Chúa muốn.

Kính chúc quí ông bà anh chị em, cách riêng các gia đình kỷ niệm hôn phối hôm nay, luôn có một quả tim yêu mến Thiên Chúa nồng nàn; để có thể thực thi thánh ý Thiên Chúa một cách cụ thể bằng việc xây dựng một gia đình bình an hạnh phúc thật sự noi gương Thánh gia. Ước chi hình ảnh thật đẹp của Chúa Giêsu trong câu kết của đoạn Tin Mừng hôm nay luôn là hình ảnh của mỗi chúng ta: “còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2,40).

Dienstag, Dezember 25, 2012

Bài giảng của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 trong lễ Vọng Giáng Sinh 24/12/2012
J.B. Đặng Minh An dịch  12/25/2012

Vẻ đẹp của Trình Thuật Tin Mừng này làm rung động con tim chúng ta hết lần này đến lần khác: đó là vẻ đẹp huy hoàng của sự thật. Trình Thuật này làm chúng ta kinh ngạc nhiều lần rằng Thiên Chúa đã nên như một trẻ thơ để chúng ta có thể yêu mến Người, để chúng ta dám yêu mến Người, và cho ta được ẵm Người như một trẻ thơ đầy tin tưởng trong vòng tay chúng ta. Như thể Thiên Chúa nói với chúng ta rằng: Ta biết vinh quang của ta làm con kinh sợ, và con đang cố gắng để khẳng định mình là ai khi đối mặt với sự vĩ đại của ta. Vì vậy, giờ đây ta đến với con như một trẻ thơ, để con có thể chấp nhận và yêu mến ta.

Tôi cũng nhiều lần xúc động bởi lời nhận xét gần như tình cờ của tác giả Tin Mừng là không có chỗ trong quán trọ dành cho Thánh Gia. Câu hỏi không thể tránh khỏi là điều gì sẽ xảy ra nếu Mẹ Maria và Thánh Giuse đã gõ cửa nhà tôi. Tôi sẽ có chỗ dành cho họ chăng? Thánh sử Gioan đã đi sâu hơn vào nhận xét dường như tình cờ về việc không có chỗ cho Thánh Gia nơi phòng trọ khiến họ phải tìm đến một chuồng gia súc; để từ đó vị thánh sử tiến đến trung tâm của vấn đề khi ngài thốt lên: “Người đã đến nhà của Người mà các gia nhân đã không tiếp nhận Người” (Ga 1:11). Vấn nạn luân lý nghiêm trọng trong thái độ của chúng ta đối với những người vô gia cư, đối với những người tị nạn và người di cư, tiến thêm một bước sâu hơn: chúng ta thực sự có chỗ cho Thiên Chúa không khi Người muốn trú ngụ dưới mái nhà chúng ta? Chúng ta có thời gian và không gian cho Người không? Chúng ta có thực sự không quay lưng lại với chính Thiên Chúa chăng? Thực tiễn là chúng ta đã bắt đầu quay lưng lại với Ngài khi chúng ta không có thời gian cho Ngài. Càng có thể di chuyển nhanh hơn, hiệu quả hơn nhờ các thiết bị tiết kiệm thời gian, chúng ta lại càng có ít thời gian hơn. Còn Thiên Chúa thì sao? Câu hỏi về Thiên Chúa dường như chẳng bao giờ là khẩn cấp đối với chúng ta. Thời gian của chúng ta đã hoàn toàn đầy ắp. Nhưng vấn đề còn đi sâu hơn. Chúa thực sự có một chỗ đứng nào đó trong tư duy của chúng ta không? Quá trình suy nghĩ của chúng ta được cấu trúc theo một cách trong đó Ngài đơn giản là không tồn tại. Ngay cả khi Ngài dường như đang gõ cửa tư duy của chúng ta, thì chúng ta lại biện minh cách này cách khác để mời Ngài đi chỗ khác chơi. Suy nghĩ một cách nghiêm túc, tư duy chúng ta được cấu trúc theo một cách trong đó "giả thuyết về Thiên Chúa" trở thành không cần thiết. Không có chỗ cho Ngài. Ngay cả trong cảm xúc và trong ước muốn của chúng ta cũng không có bất kỳ chỗ nào cho Ngài. Chúng ta muốn chính bản thân mình. Chúng ta muốn những gì chúng ta có thể nắm bắt, chúng ta muốn hạnh phúc trong tầm tay của chúng ta, chúng ta muốn kế hoạch và mục đích của chúng ta phải thành công. Chúng ta đầy ắp những gì về chính mình đến nỗi không còn chỗ nào sót lại cho Thiên Chúa. Và điều đó cũng có nghĩa là không còn chỗ nào cho tha nhân, cho trẻ em, cho người nghèo, cho người lạ. Khi suy tư về câu nói giản đơn là không còn chỗ nào trong quán trọ, chúng ta thấy cần phải lắng nghe biết bao lời khuyên của Thánh Phaolô: "Anh em hãy hoán cải bằng cách đổi mới lòng trí mình" (Rom 12:2). Thánh Phaolô nói về đổi mới, về việc mở cửa tư duy chúng ta (nous), thay đổi toàn bộ thế giới quan và cái nhìn về chính bản thân mình. Việc hoán cải mà chúng ta cần đến phải thực sự đạt đến chiều sâu trong mối quan hệ của chúng ta với thực tại. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta ý thức về sự hiện diện của Ngài ngõ hầu chúng ta có thể nghe thấy dù nhẹ nhàng nhưng liên tục tiếng Chúa gõ cửa con người và ý chí chúng ta. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta có chỗ dành cho Ngài trong chính chúng ta, xin cho chúng ta có thể nhận ra Ngài nơi những người mà qua những con người ấy Chúa nói với chúng ta, đó là trẻ em, người đau khổ, bị bỏ rơi, những người bị loại trừ và những người nghèo của thế giới này.

Có một câu nữa từ Trình Thuật Giáng Sinh mà tôi muốn suy tư cùng anh chị em – đó là câu mà các thiên thần hát mừng sau khi loan báo Đấng Cứu Thế vừa mới sinh ra: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa hài lòng." Thiên Chúa là vinh quang. Thiên Chúa là ánh sáng tinh khiết, là ánh quang rạng ngời của chân lý và tình yêu. Ngài là thiện hảo. Ngài là điều thiện hảo thật sự, là sự thiện tuyệt hảo. Các thiên thần xung quanh bắt đầu bằng cách đơn giản là công bố niềm vui khi được nhìn thấy vinh quang Chúa. Bài hát của các thiên thần tỏa ra niềm vui đang đong đầy trong họ. Trong lời ca của họ, chúng ta dường như đang nghe những âm thanh của trời cao. Chẳng cần phải đặt vấn đề làm sao hiểu được ý nghĩa đầy đủ của tất cả những lời ca ấy, chúng ta cũng đã thấy hạnh phúc ngập tràn lòng mình khi nhìn thấy sự lộng lẫy tinh khiết của sự thật và tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta muốn cho niềm vui này tỏa lan và làm rung động lòng mình với sự hiện diện của sự thật, của thiện hảo, và ánh sáng tinh khiết. Thiên Chúa thiện hảo, và Ngài là quyền lực tối cao trên tất cả các quyền năng. Tất cả điều này làm cho lòng chúng ta mừng vui tối nay, cùng với các thiên thần và các mục đồng.

Liên kết với vinh quang Thiên Chúa trên cao là hòa bình cho loài người dưới thế. Nơi Thiên Chúa không được tôn vinh, nơi Ngài bị quên lãng hoặc thậm chí bị từ chối, nơi đó cũng không có hòa bình. Nhưng mà, ngày nay lại tràn lan những não trạng khẳng định ngược lại: theo đó các tôn giáo, đặc biệt là các tôn giáo độc thần, là nguyên nhân của bạo lực và các cuộc chiến trên thế giới. Nếu muốn có hòa bình, nhân loại trước tiên phải loại trừ tôn giáo. Thuyết độc thần, niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất, được cho là kiêu ngạo, là nguyên cớ cho sự bất khoan dung, bởi vì tự bản chất của nó, với yêu sách về một sự thật duy nhất, nó tìm cách áp đặt chính nó trên tất cả mọi người. Đúng là theo dòng lịch sử, thuyết độc thần đã là một cái cớ cho bất khoan dung và bạo lực. Đúng là tôn giáo có thể bị băng hoại và do đó đi ngược lại bản chất sâu xa nhất của tôn giáo, khi các tín hữu nghĩ rằng họ có thể thay quyền Thiên Chúa mà ra tay theo ý riêng mình, coi Thiên Chúa như tài sản riêng của họ. Chúng ta phải cảnh giác trước những bóp méo sự thánh thiêng. Trong khi không thể phủ nhận những lạm dụng tôn giáo nhất định trong lịch sử, cần khẳng khái thấy rằng thật là sai lầm khi cho rằng phủ nhận Thiên Chúa sẽ dẫn đến hòa bình. Nếu ánh sáng của Thiên Chúa bị dập tắt, phẩm giá thánh thiêng của con người cũng bị dập tắt. Lúc đó, thụ tạo loài người không còn là hình ảnh của Thiên Chúa, là Đấng mà chúng ta phải tỏ lòng kính trọng trong mỗi con người, nơi những người yếu đuối, khách lạ, và người nghèo. Lúc đó, chúng ta thôi không còn là anh chị em, là con cái của cùng một Cha, thôi không còn là những người thuộc về nhau vì cùng thuộc về một Cha trên trời. Lúc đó phát sinh loại bạo lực kiêu ngạo, người ta khinh thường và chà đạp lẫn nhau: chúng ta đã thấy điều này trong tất cả sự tàn bạo của nó trong thế kỷ vừa qua. Chỉ khi ánh sáng của Thiên Chúa tỏa sáng trên nhân loại và trong lòng người, thì lúc đó nhân vị của con người, là thụ tạo được Chúa ao ước, biết đến và yêu mến, mới không bị chà đạp, bất kể con người ấy khốn cùng đến mức nào. Trong Đêm Thánh này, Thiên Chúa đã trở thành nhục thể, như tiên tri Isaia đã nói tiên tri, hài nhi này là "Emmanuel", là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (7:14). Và qua các thế kỷ, trong khi có sự lạm dụng tôn giáo, cũng có sự thật rằng các lực lượng hòa giải và thiện tâm đã không ngừng xuất phát từ đức tin nơi Thiên Chúa làm người. Trong bóng tối của tội lỗi và bạo lực, đức tin này đã chiếu rõi tia sáng của hòa bình và thiện hảo, và vẫn còn tiếp tục tỏa sáng.

Vì vậy, Chúa Kitô là hòa bình của chúng ta, và Ngài đã công bố hòa bình cho những người xa gần (x. Eph 2:14, 17). Chúng ta có thể làm gì khác hơn là cầu nguyện với Ngài: Vâng, lạy Chúa, xin cũng công bố một nền hòa bình cho chúng con ngày hôm nay, bất kể xa gần. Xin cho chúng con ngày hôm nay cũng nhận ra rằng thanh kiếm có thể được biến thành lưỡi cày (Is 2:4), và thay cho những vũ khí chiến tranh là những trợ giúp cụ thể dành cho những người đau khổ. Xin soi sáng cho những ai nghĩ rằng họ phải thực hành bạo lực nhân danh Chúa, để họ nhận thức được sự vô nghĩa của bạo lực và biết nhận ra thiên nhan đích thật của Chúa. Xin giúp chúng con trở nên những người "Chúa hài lòng" – những người theo hình ảnh của Chúa và do đó là những người của hòa bình.

Khi các thiên sứ từ giã, những người chăn chiên nói với nhau rằng: Chúng ta hãy đi đến Bethlehem và xem điều gì đã xảy ra cho chúng ta (x. Lc 2:15). Vị Thánh Sử cho chúng ta biết là các mục đồng đã vội vàng đến Bethlehem (x 2:16). Một sự tò mò linh thánh đã thúc đẩy họ đến xem hài nhi nằm trong máng cỏ, là Đấng mà các thiên sứ cho biết là Đấng Cứu Độ, là Đức Kitô Đức Chúa. Niềm vui lớn lao thiên thần loan báo đã làm rung động con tim họ và chấp cánh cho họ.

Phụng vụ của Giáo Hội ngày hôm nay cũng nói với chúng ta nào hãy đến Bethlehem. Kinh Thánh tiếng Latin dùng từ “Trans-eamus”: chúng ta hãy đi “qua”, hãy bước xa hơn nữa, để làm cho “quá trình chuyển hoá” giúp chúng ta bước ra ngoài nếp nghĩ và thói quen của cuộc sống, giúp chúng ta thoát lên trên cái thế giới duy vật để tiến vào một thế giới thực, để đến với Thiên Chúa, Đấng đã đến với chúng ta trước. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta có thể vượt qua giới hạn của chúng ta, vượt qua thế giới của chúng ta, để giúp chúng ta gặp gỡ Ngài, đặc biệt là tại thời điểm khi Người đặt mình vào tay chúng ta và vào trái tim của chúng ta trong Bí Tích Thánh Thể.

Nào chúng ta hãy đến Bethlehem: khi chúng ta nói những lời này với nhau, cùng với các mục đồng, chúng ta không nên chỉ nghĩ đến “cuộc đại vượt qua” để đến với Thiên Chúa hằng sống, nhưng chúng ta cũng nên nghĩ đến thị trấn Bethlehem thực sự và tất cả những nơi Chúa đã sống, đã loan báo Tin Mừng và chịu đau khổ. Vào lúc này đây, chúng ta hãy cầu nguyện cho những người đang sống và chịu đau khổ tại những nơi này ngày hôm nay. Chúng ta hãy cầu nguyện để có hòa bình trong miền đất đó. Chúng ta hãy cầu nguyện để người Israel và Palestine có thể sống trong bình an của cùng một Thiên Chúa và trong tự do. Chúng ta cũng cầu nguyện cho các nước trong khu vực, Li Băng, Syria, Iraq và các nước láng giềng để có thể có hòa bình, để các Kitô hữu trong những vùng đất nơi mà đức tin của chúng ta được sinh ra có thể tiếp tục sống ở đó, để các Kitô hữu và những người Hồi giáo có thể cùng nhau xây dựng quốc gia trong hòa bình của Thiên Chúa.

Các mục đồng đã vội vã lên đường. Sự hiếu kỳ linh thánh và niềm vui thánh thiện thúc đẩy họ. Trong trường hợp của chúng ta, có lẽ không thường khi chúng ta hấp tấp tìm kiếm những gì thuộc về Thiên Chúa. Thường khi, Thiên Chúa không nằm trong số những điều chúng ta cần phải vội vàng. Những gì thuộc về Thiên Chúa có thể nấn ná được, chúng ta nghĩ và chúng ta nói như thế. Nhưng thực ra Ngài là điều quan trọng nhất, tối hậu là điều thật sự quan trọng nhất. Tại sao chúng ta không thể bị bức xúc bởi sự hiếu kỳ để đến mà xem cho rõ ràng hơn và để nhận ra những gì Thiên Chúa muốn nói với chúng ta? Lúc này đây, chúng ta hãy xin Ngài chạm vào con tim của chúng ta với một sự hiếu kỳ linh thánh và một niềm vui thánh thiện như các mục đồng, và do đó cho phép chúng ta hăng hái đến Bethlehem, đến với Chúa, Đấng ngày hôm nay lại một lần nữa đang đến để gặp gỡ chúng ta. Amen.
+ Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16

Montag, Dezember 24, 2012

Bài Giáo Lý của ĐTC về Năm Đức Tin: Đức Mẹ Maria, Mẫu Gương Vâng Phục của Đức Tin

Phaolô Phạm Xuân Khôi  12/24/2012

“Vinh quang Thiên Chúa không biểu lộ trong chiến thắng và sức mạnh của một vị vua, không tỏa sáng trong một thành phố thời danh, nơi cung điện xa hoa, nhưng ngự trong cung lòng của một trinh nữ, tỏ lộ trong sự nghèo nàn của một Hài Nhi.”

Dưới đây là bản dịch Bài Giáo Lý thứ mười của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin, được ban hành tại Sảnh Đường Phaolô VI hôm thứ tư ngày 19 tháng 12, 2012. Hôm nay ĐTC dạy tiếp tục loạt Bài Giáo Lý về Đức Tin.
* * *


Anh chị em thân mến,

Trong cuộc hành trình Mùa Vọng, Đức Trinh Nữ Maria chiếm một địa vị đặc biệt như người chờ đợi, một cách duy nhất, việc thể hiện những lời hứa của Thiên Chúa là chấp nhận Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, trong đức tin và trong xác phàm, trong sự hoàn toàn vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa. Hôm nay, tôi muốn cùng anh chị em suy niệm một cách vắn tắt về đức tin của Đức Mẹ Maria từ mầu nhiệm Truyền Tin cao cả.

“Chaîre kecharitomene, ho Kyrios meta sou”, “Hãy vui lên, Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà” (Lc 1: 28). Đó là những lời được Thánh Luca kể lại, qua đó Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel nói cùng Đức Mẹ Maria. Thoáng nhìn, từ chaîre “hãy vui lên,” được coi như một lời chào bình thường, thường được dùng trong thế giới Hy Lạp, nhưng khi đọc trong bối cảnh của truyền thống Thánh Kinh, từ này có một ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Cùng một từ này xuất hiện bốn lần trong bản Cựu Ước bằng tiếng Hy Lạp và luôn luôn được dùng như một lời công bố vui mừng về sự xuất hiện của Đấng Thiên Sai (x. Xp 3:14, Ge 2: 21; Dcr 9:9, Ac 4:21). Lời Thiên Sứ chào Đức Mẹ Maria là một lời mời vui mừng, một niềm vui cả thể, lời ấy công bố việc chấm dứt nỗi buồn mà thế giới đang phải chịu trước sự giới hạn của cuộc sống, sự đau khổ, cái chết, sự tàn ác và bóng tối của sự dữ, là những điều dường như che khuất ánh sáng của sự tốt lành của Thiên Chúa. Nó là một lời chào đánh dấu sự khởi đầu của Phúc Âm, của Tin Mừng.

Nhưng tại sao Đức Mẹ lại được mời vui mừng theo cách này? Câu trả lời nằm trong phần thứ hai của lời chào: “Chúa ở cùng bà.” Ở đây cũng thế, để hiểu được ý nghĩa của thuật ngữ này, chúng ta phải trở về với Cựu Ước. Trong Sách Xôphônia, chúng ta tìm thấy cách diễn tả này: “Mừng vui lên, hỡi thiếu nữ Sion ... Chúa là Vua của Israel đang ở giữa ngươi ... Chúa là Thiên Chúa ngươi đang ở giữa ngươi, một Đấng Cứu Thế oai hùng” (3:14-17). Trong những lời này có một lời hứa đôi dành cho dân Israel, cho thiếu nữ Sion: Thiên Chúa là Đấng Cứu Thế và sẽ ở giữa dân Người, nơi cung lòng thiếu nữ Sion. Trong cuộc đối thoại giữa thiên sứ và Đức Mẹ, chính lời hứa này được thể hiện: Đức Mẹ Maria được đồng hóa với dân được kết hôn cùng Thiên Chúa, Mẹ thực sự là hiện thân của thiếu nữ Sion; trong Mẹ sự mong chờ việc đến lần sau hết của Thiên Chúa được thể hiện, trong Mẹ Thiên Chúa hằng sống cư ngụ.

Trong lời chào của thiên sứ, Đức Mẹ Maria được gọi là “Đấng đầy ân sủng”; trong tiếng Hy Lạp, từ “ân sủng”, charis có cùng một căn ngữ với từ “niềm vui”. Trong cách diễn tả này nguồn gốc niềm vui của Đức Mẹ cũng được làm sáng tỏ thêm: niềm vui đến từ ân sủng, nghĩa là, từ sự hiệp thông với Thiên Chúa, từ việc có một mối liên hệ sống còn với Ngài, từ việc trở nên nơi cư ngụ của Chúa Thánh Thần, từ việc hoàn toàn được hình thành bởi hành động của Thiên Chúa. Đức Mẹ Maria là tạo vật đã mở rộng cửa cho Đấng Tạo Hóa của mình một cách độc nhất vô nhị, Mẹ đã phó thác mình trong tay Ngài, mà không giới hạn. Mẹ sống hoàn toàn bởi và trong mối liên hệ với Chúa; Mẹ sống trong một thái độ lắng nghe, chú tâm nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa trong cuộc hành trình của dân Ngài; Mẹ được đưa vào một lịch sử đức tin và hy vọng vào lời hứa của Thiên Chúa, là điều tạo thành kết cấu của cuộc đời Mẹ. Và Mẹ tự ý tuân phục lời Mẹ đã nhận được, tuân phục thánh ý Chúa trong sự vâng phục của đức tin.

Thánh Ký Luca kể lại câu chuyện của Đức Mẹ một cách tinh tế tương tự như câu chuyện của ông Abraham. Như vị Tổ Phụ vĩ đại là cha của các tín hữu, đã đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa để rời bỏ vùng đất mà ông đang sống, nơi an toàn của ông, để bắt đầu cuộc hành trình dẫn đến một vùng đất mà ông không biết và chỉ được sở hữu bằng lời hứa của Thiên Chúa, cũng thế, Đức Mẹ hoàn toàn tín thác vào lời mà sứ giả của Thiên Chúa công bố và trở thành mẫu gương và mẹ của tất cả các tín hữu.

Tôi muốn nhấn mạnh đến một khía cạnh quan trọng khác: việc mở linh hồn ra với Thiên Chúa và hành động của Ngài trong đức tin cũng bao gồm yếu tố bóng tối. Mối liên hệ của con người với Thiên Chúa không xóa bỏ khoảng cách giữa Đấng Tạo Hóa và tạo vật, không loại bỏ điều mà Thánh Tông Đồ Phaolô xác quyết là việc đối diện với sự sâu thằm của sự khôn ngoan của Thiên Chúa: “Phán quyết của Ngài làm sao mà hiểu cthấu, và đường lối của Ngài làm sao mà dò được!” (Rom 11:33). Nhưng chỉ những người như Đức Mẹ - hoàn toàn mở lòng ra cho Thiên Chúa, mới có thể chấp nhận Thánh Ý của Thiên Chúa, ngay cả khi ý ấy còn bí ẩn, thậm chí cả khi nó thường không phù hợp với ý riêng của chúng ta và là một lưỡi gươm thâu qua tâm hồn, như ông già Simêôn nói tiên tri với Đức Mẹ khi dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ (Lc 2:35). Cuộc hành trình đức tin của ông Abraham bao gồm giây phút vui mừng vì hồng ân có con trai của ông là Isaac, nhưng cũng là thời gian của bóng tối, khi phải lên núi Moria để thực hiện một hành vi nghịch lý: Thiên Chúa đòi ông phải hiến tế đứa con trai mà Ngài mới ban cho ông. Trên núi, thiên sứ ra lệnh cho ông: “Đừng động tay vào đứa trẻ! Đừng làm hại nó! Bây giờ Ta biết rằng ngươi kính sợ Thiên Chúa, vì ngươi đã không tiếc con trai của ngươi, con trai duy nhất của ngươi” (St 22:12); lòng hoàn toàn tin tưởng của ông Abraham vào sự trung thành với lời hứa của Thiên Chúa vẫn trọn vẹn ngay cả khi lời Ngài bí ẩn và khó hiểu, hầu như không thể nào chấp nhận nổi. Với Đức Mẹ Maria cũng thế, đức tin của Mẹ sống niềm vui Truyền Tin, nhưng cũng phải đi qua bóng tối của việc đóng đinh của Con Mẹ, để đạt đến ánh sáng của sự Phục Sinh.

Cuộc hành trình đức tin của mỗi người chúng ta cũng giống như thế: chúng ta gặp những giây phút ánh sáng, nhưng chúng ta cũng gặp phải những đoạn đường mà Thiên Chúa dường như vắng mặt, sự im lặng của Ngài đè nặng tâm hồn chúng ta và Thánh Ý của Ngài không phù hợp với ý muốn của chúng ta, với điều chúng ta muốn. Nhưng chúng ta càng mở lòng ra cho Thiên Chúa, càng đón nhận món quà đức tin, càng hoàn toàn đặt niềm tin vào Ngài - như ông Abraham và Đức Mẹ - thì Ngài càng làm cho chúng ta có khả năng hơn để sống bất kỳ tình trạng nào của cuộc sống trong bình an và sự chắc chắn của lòng trung thín và tình yêu của Ngài, nhờ sự hiện diện của Ngài. Nhưng điều đó có nghĩa là đi ra ngoài cái tôi và các dự tính của mình, để Lời Chúa là ánh sáng hướng dẫn những tư tưởng và hành động của mình.

Tôi muốn một lần nữa dừng lại ở một khía cạnh nổi bật trong những tường thuật về thời thơ ấu của Chúa Giêsu như Thánh Luca đã kể lại. Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse đem con trai của các ngài lên Giêrusalem, lên Đền Thờ để dâng hiến Người cho Chúa theo quy định của Lề Luật Môsê: “Tất cả con trai đầu lòng đều phải được thánh hiến cho Chúa” (Lc 2:22-24). Cử chỉ này của Thánh Gia có một ý nghĩa sâu xa hơn nếu chúng ta đọc trong ánh sáng của sự hiểu biết phúc âm về Chúa Giêsu khi Người lên mười hai tuối, sau ba ngày tìm kiếm, được tìm thấy trong Đền Thờ đàm đạo với các vị thầy (Tiến Sĩ). Để trả lời những lời đầy lo lắng của Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse: “Con ơi, sao con lại đối xử với cha mẹ như thế? Con coi, cha con và mẹ đã lo lắng tìm con!” Chúa Giêsu nói một cách bí ẩn: “Tại sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con phải ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2:48-49). Điều đó có nghĩa là, Người như một người con ở nơi mà Chúa Cha sở hữu, ở nhà của Chúa Cha. Mẹ Maria phải canh tân đức tin sâu xa trong đó Mẹ thưa “xin vâng” trong biến cố Truyền Tin; Mẹ phải chấp nhận việc dành ưu tiên cho Cha thật và riêng của Chúa Giêsu; Mẹ phải biết để cho người Con mà Mẹ đã sinh ra được tự do theo đuổi sứ mệnh của Người. Và lời “xin vâng” của Đức Mẹ Maria với Thánh Ý Thiên Chúa, trong sự vâng phục của đức tin, được lặp đi lặp lại trong suốt cuộc đời Mẹ, cho đến giây phút khó khăn nhất, là giây phút của Thánh Giá.

Đối diện với tất cả những điều này, chúng ta có thể tự hỏi: làm thế nào mà Đức Mẹ có thể sống con đường này cùng Con Mẹ với một niềm tin rất mạnh mẽ như thế, ngay cả trong bóng tối mà không mất lòng hoàn toàn tín thác vào hành động của Thiên Chúa? Có một thái độ cơ bản mà Đức Mẹ áp dụng trước những gì xảy ra trong cuộc đời Mẹ. Trong lúc Truyền Tin, Mẹ bối rối khi nghe những lời của Thiên Sứ, sự sợ hãi mà một người cảm thấy khi được sự gần gũi của Thiên Chúa chạm đến, nhưng không phải là thái độ của những người sợ hãi trước những gì Thiên Chúa có thể đòi hỏi. Đức Mẹ suy nghĩ, Mẹ tự hỏi về ý nghĩa của lời chào này (x. Lc 1:29). Từ Hy Lạp được sử dụng trong Tin Mừng để xác định “sự suy nghĩ” này là “dielogizeto,” gợi lại gốc của từ “dialogue - đối thoại”. Điều này có nghĩa là Đức Mẹ có một cuộc đối thoại thân mật với Lời của Thiên Chúa đã được công bố, Mẹ không kể đến Lời ấy cách phiến diện, nhưng Mẹ ngừng lại, để cho Lời ấy thấm vào trí khôn và tâm hồn Mẹ ngõ hầu hiểu những gì Chúa muốn từ Mẹ, là ý nghĩa của lời công bố. Chúng ta tìm thấy một lời khác nói về thái độ nội tâm của Đức Mẹ trước hành động của Thiên Chúa, cũng trong Tin Mừng Thánh Luca, khi Chúa Giêsu sinh ra, sau khi các mục đồng thờ lạy. Thánh Luca khẳng định rằng Đức Mẹ Maria “giữ tất cả những điều ấy và suy nghĩ trong lòng” (Lc 2:19), trong thuật ngữ Hy Lạp là symballon, chúng ta có thể nói rằng Mẹ “giữ chung lại”, Mẹ “bỏ chung lại” trong lòng Mẹ tất cả những biến cố đã xảy ra cho Mẹ; Mẹ đặt từng biến cố một, từng chữ một, từng thực thể một trong toàn bộ và so sánh chúng, gìn giữ chúng, trong khi nhìn nhận rằng tất cả đến từ Thiên Chúa. Đức Mẹ Maria không ngừng lại ở một sự hiểu biết hời hợt đầu tiên về những gì đang xảy ra trong cuộc đời Mẹ, nhưng Mẹ có thể nhìn một cách sâu sắc hơn, Mẹ để cho mình được chất vấn bởi các biến cố, Mẹ khai triển chúng, phân biệt chúng và đạt được sự hiểu biết mà chỉ một mình đức tin có thể đảm bảo. Chính lòng khiêm nhường sâu xa của sự vâng phục của đức tin của Đức Mẹ Maria, Đấng đón chào vào chính mình ngay cả những điều Mẹ không thể hiểu về hành động của Thiên Chúa, để mặc cho Chúa khai mở trí khôn và tâm hồn Mẹ. Bà Elizabeth, người họ hàng Mẹ, đã thốt lên: “Phúc cho ai đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói cùng mình” (Lc 1:44). Chính vì đức tin của Mẹ mà muôn thế hệ sẽ gọi Mẹ là có phúc.

Các bạn thân mến, Đại Lễ Giáng Sinh của Chúa mà chúng ta sắp cử hành, mời gọi chúng ta sống khiêm nhường và trong sự vâng phục của đức tin. Vinh quang Thiên Chúa không biểu lộ trong chiến thắng và quyền lực của một vị vua, không tỏa sáng trong một thành phố thời danh, nơi cung điện xa hoa, nhưng ngự trong cung lòng của một trinh nữ, tỏ lộ trong sự nghèo nàn của một Hài Nhi. Sự toàn năng của Thiên Chúa, ngay cả trong đời sống của chúng ta, hoạt động với sức mạnh, thường âm thầm, của chân lý và tình yêu. Như thế, đức tin cho chúng ta biết rằng sức mạnh của Hài Nhi ấy cuối cùng sẽ khắc phục được sự huyên náo của các quyền lực thế gian.
Nguồn:    http://www.vietcatholic.net/News/Html/101762.htm

Sonntag, Dezember 23, 2012

Lễ Chúa Giêsu giáng sinh làm người
Hằng năm chúng ta mừng kính mầu nhiệm Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa giáng sinh xuống thế làm người.

Chúng ta tin như vậy. Nhưng biến cố Chúa Giêsu giáng sinh cách đây hơn hai ngàn năm đã xảy ra trong khung cảnh lịch sử của đời sống nhân loại.

Thánh sử Luca viết thuật trong phúc âm về biến cố lịch sử Chúa Giêsu sinh ra như sau: „Thời ấy, hoàng đế Augusto ra chiếu chỉ truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ„ ( Lc 2,1) ̣

Những lời này là mốc điểm cho lịch sử ngày lễ Chúa Giêsu gíang sinh làm người. Nhưng thắc mắc đặt ra hoàng đế Augusto là ai? Tại sao Chúa Giêsu giáng sinh vào triều đại hoàng đế này, và có sự gì trùng hợp hay tương đồng không?

1. Hoàng đế Augustus

Augustus sinh ngày 23.09.63 trước Chúa giáng sinh ở Roma với tên Galius Octavius. Mẹ của Augustus, bà Atila, là cháu gái của Vua Caesar và của Octavius. Như thế Augustus là cháu gọi Julius Caesar bằng ông, và trong khế ước thừa tự Ông đã nhận Augustus là con nuôi và là người thừa tự chính gia tài của mình.

Năm 42. trước Chúa giáng sinh Augustus thỏa thuận với Antonius cai trị phần phía Tây, còn Antonius phần phía Đông đế quốc. Nhưng sau đó Augustus lại tranh chấp với Antonius, và sau cùng đánh thắng Antonius cùng nữ hoàng Cleopatra của Ai Cập năm 31. trước Chúa giáng sinh ở Actium. Từ lúc đó Augustus một mình trở thành người cai trị toàn cõi đế quốc Roma.

Ngày 16.01.27 trước Chúa giáng sinh Thượng viện (Sena) ̣ Roma trao tặng danh hiệu Augustus cho ông, tiếng Hylạp là Sebastos, Vị đáng kính tôn thờ, cũng như nhiều danh dự khác nữa, cùng tước hiệu danh dự về những nhân đức virtus- Can đảm, clementia - nhân từ, iustitia - công chính, và pietas - người có trách nhiệm. Từ lúc đó Ông có tên chính thức: Imperator Caesar divi filius Ausgustus - Hoàng đế Augustus, con của thần linh Caesar.

Ngoài ra Ông còn có danh hiêụ là vị cứu tinh ( Soter) , mà trong bản văn kinh thánh Cựu ước tiếng Hy Lạp danh xưng này chỉ dành cho một mình Thiên Chúa.

Augustus là vị hoàng đế Roma thứ nhất và cai trị thiên hạ từ năm 27. trước Chúa giáng sinh đến năm 14. sau Chúa giáng sinh.

Năm 12. trước Chúa giáng sinh Augustus được tuyên xưng bầu chọn là Pontifex maximus.

Năm 2. trước Chúa giáng sinh, vào thời điểm năm này Chúa Giêsu giáng sinh làm người, Augustus nhận thêm danh hiệu Pater patriae - người cha dân tộc.

Ngày 19.08. năm 14 sau Chúa giáng sinh Augustus băng hà ở Nola, và được công nhận tuyên dương là Vị Thần linh đất nước.

Tháng thứ 8. trong năm từ năm 8. trước Chúa giáng sinh có tên Augustus đặt theo tên của hoàng đế Augustus, để nhắc nhớ lại vào tháng này Ông trở thành vị Toàn quyền thứ nhất của đế quốc Roma.

2. Khung cảnh lịch sử

„Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần , Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Maria, và đã làm người.“ (Kinh tin kính.)

Lời tuyên xưng trong kinh Tin Kính của Hội Thánh về Chúa Giêsu, mà chúng ta đọc hằng tuần theo ý nghĩa đạo đức thần học. Nhưng trong lời tuyên xưng đức tin đó còn gói ghém, hay đúng hơn sân khấu lịch sử đời sống, lúc Chúa Giêsu sinh ra làm người trên trần gian, đã diễn ra vào thời điểm lúc đó.

Sân khấu lịch sử đó là đế quốc Roma dưới thời hoàng đế Augustus bao rùm khắp Âu Châu, sang tận miền Tiểu Á Châu, vùng Trung Đông, nơi quê hương Do Thái của Chúa Giêsu.

Hoàng đế Augustus được xưng tụng là vị cứu tinh mang lại hòa bình cho thiên hạ. Và chính ông đã cho lập Ara Pacis Augusti - Bàn thờ hòa bình của Augustus, ở tại Roma, mà ngày nay còn sót lại di tích để khảo cứu.

Rồi ngày sinh ra của Hoàng đế Augustus , ngày 23.09. cũng được cắt nghĩa theo ý nghĩa là người sinh ra để kiến tạo mang hòa bình cho nhân loại. Và ngày sinh ra của hoàng đế Augustus cũng được hiểu là ngày xoay chuyển sang mốc chặng thời gian mới khác. Theo phân chia thay đổi thời tiết thiên nhiên bốn mùa bên xứ lạnh Âu châu, Bắc Mỹ châu, ngày 23.09. hằng năm là ngày mốc điểm từ mùa Hè chuyển sang mùa Thu

Thánh Luca trong phúc âm đã tường thuật biến cố Chúa Giêsu giáng sinh lồng trong khung cảnh lịch sử mọi người trong đế quốc Roma thời đó theo lệnh hoàng đế Roma phải trở về quê quán của mình mà khai tên trong sổ bộ thuế khóa. (Lc 2,) ̣

Đức giáo hoàng Benedicktô XVI. đã có nhận xét về khung cảnh lịch sử Chúa Giêsu giáng sinh: Thánh Luca trong tường thuật đã nói đến hoàng đế Augustus của đế quốc Roma và lời công bố toàn dân trở về quê quaăn cũ của mình khai tên vào sổ bộ mang chiều kích tập hợp đại kết, đồng thời như một khung lịch sử và thần học cho những biến cố được thuật lại. ( Joseph Ratzinger Benedickt XVI., JESUS von Nazareth, Prolog, Herder 2012, tr. 73.)

3. Chúa Giêsu sinh ra làm người

Thánh sử Matthêu viết về nguồn gốc gia phả của Chúa Giêsu: Từ tổ phụ Abraham đến vua Đavít là 14 đời. Từ vua Đavít đến thời lưu đày ở Babylon là 14 đời. Và từ thời lưu đày ở Babylon đến Đức Kitô cũng là 14 đời” (Mt 1,1-17).

Ngài sinh ra trong đất nước Do Thái, ở Bethlehem (Lc 2,) ̣Như thế quê hương quốc tịch của Chúa Giêsu là đất nước Do Thái, Ngài là công dân Do Thái.

Chúa Giêsu có tên thật là J.hosua hoặc Jesua hoặc Jesu (nếu là tiếng Aramê). Tên này có nghiã là: "Giavê là sự cứu độ" hay "Giavê ban ơn cứu độ". Giêsu không phải là một tên gọi đặc biệt và mới lạ của riêng Chúa Giêsu, nhưng là tên gọi khá thông dụng và rất được ưa chuộng vào thời đó.

Về ngày sinh ra cùng năm sinh của Chúa Giêsu không có sử sách nào ghi lại. Chỉ biết trước khi đạo Công giáo truyền sang đế quốc Roma, từ thời xa xưa ở nhiều nền văn hóa dân gian, ngày 25.12. là một ngày đặc biệt, là ngày bản lề chuyển tiếp sang mùa Đông với thời tiết gía lạnh cùng tối tăm. Theo văn hóa người Roma, họ kính thờ Thần Saturn, vị Thần mặt Trời không hề bị chiến thắng vào ngày này.

Những tín hữu Chúa Kitô từ năm 217 sau Chúa Giáng sinh, dưới thời Đức giáo hoàng Hippolytus, Giáo Hội Công giáo thành Roma đã tìm cách lấy ngày này thay vì thờ thần mặt trời theo nghi lễ xã hội của dân ngoại Roma, làm ngày mừng sinh nhật Chúa Giesu sinh xuống làm người trên trần gian.

Hội Thánh Công giáo muốn „rửa tội“ ngày 25.12. theo nghi lễ tôn giáo dân ngoại Roma, thành ngày lễ Chúa Giesu giáng sinh làm người, Đấng là Mặt Trời công chính thay cho Thần mặt trời không hề bị chiến thắng của dân Roma.

Tiến trình cố gắng này kéo dài cùng nhiều thử thách tưởng chừng như thất bại. Nhưng đến thế kỷ thứ 4. khi đạo Công giáo được chính thức công nhận trong toàn đế quốc Roma dưới thời hoàng đế Constantino, cố gắng „rửa tội“ ngày thờ thần mặt trời theo nghi lễ ngoại đạo thành ngày theo nghi lễ đạo Công giáo mới chính thức thành công được công nhận.

Và cho đến thế kỷ thứ 8. sau Chúa Giáng sinh, ngày 25.12. hằng năm là ngày lễ trọng mừng sinh nhật Chúa Giêsu trở thành ngày lễ chung cho Hội Thánh Công giáo trên hoàn cầu.

Căn cứ theo Phúc âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu là ánh sáng chân thật đến trong trần gian (Ga 8,9), ̣ và theo sách Tiên tri Maleachi, Chúa Giêsu, Đấng Mặt Trời công chính (3,2). Nên „rửa tội“ lấy ngày 25.12. theo ý nghĩa văn hóa của dân Roma ngày xưa cho trở thành ngày kính thờ Chúa Giêsu, Đấng là Mặt Trời đến trong trần gian là điều rất thuận tiện thích hợp cùng phải lẽ và chính đáng.

Chúa Giêsu sinh ra vào một thời gian nhất định trong khung cảnh lịch sử xã hội thời hoàng đế Roma Augustus ra chiếu chỉ toàn dân về quê quán cũ khai tên tuổi. Và lúc Chúa Giêsu ra giảng đạo loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa cũng vào thời điểm nhất định, năm thứ 15. thời hoàng đế Teberius cai trị đế quốc Roma. (Lc 3,1.) ̣

Chúa Giêsu không phải là một nhân vật thần thoại sinh ra và xuất hiện vào một lúc naầo đó. Ngài là một con người thuộc vào một thời gian chính xác được sử sách ghi chép lại và vào một không gian hình thể địa lý chính xác: điểm hoàn vũ và điểm cụ thể cùng chung hợp gặp gỡ nối kết với nhau.

Nơi Ngài thể hiện Logos ( Ngôi Lời) trong ý nghĩa sáng tạo của mọi sự vật đã đi vào cuộc sống trần gian. Logos muôn thuở đã trở thành người trong mối tương quan không gian và thời gian. ( Joseph Ratzinger Benedickt XVI., JESUS von Nazareth, Prolog, Herder 2012, tr. 74.)

4. Giữa hai nhân vật lịch sử

1. Triều đại

Augustus là một vị hoàng đế của đế quốc Roma từ 27. trước Chúa giáng sinh đến năm 14. sau Chúa giáng sinh.

Chúa Giêsu cũng là một vị Vua, như Ngài đã xác nhận về mình: Nước tôi không thuộc về thế gian này. (Ga 18,36). Triều đại của Vua Giêsu là lòng con người không có biên giớ về hình thể địa lý cũng như thời gian và bao trùm hết mọi con người. ̣

2. Sứ mạng

Hoàng đế Augustus ban hành chiếu chỉ sắc lệnh được mệnh danh Eu-Angelion: tin mừng. Cho dù chiếu chỉ sắc lệnh của hoàng đế tốt hay không tốt.

Trong ý ngĩa và mục đích đó, những lời giảng dạy của Chúa Giêsu cũng là Tin mừng ơn cứu độ được loan báo cho muôn dân gian vào mọi thời đại.

3. Đích điểm đạt tới

Hoàng đế Augustus đã thành công trong việc chấm dứt nội chiến trong đế quốc Roma thời đó và mang lại nền hòa bình trong xã hội đế quốc Roma do Ông cai trị, Pax Romana.

Chúa Giêsu cũng là người mang hòa bình đến trong trần gian, như chính Ngài xác nhận: Ngài là sự hòa bình. Nền hòa bình mà trần gian không thể cho được. ( Ga 14, 23-31), Pax Christi.

Hoàng đế Augustus dựa vào quyền lực sức mạnh trần gian.

Còn Chúa Giêsu là vị thủ lãnh dựa trên sức lực quyền uy tinh thần.

4. Người Cha

Hoàng đế Augustus được Senat trao tặng danh hiệu Pater Patriae, người cha tổ quốc.

Chúa Giêsu cũng là một người cha. Ai tin vào Ngài , người đó trở thành con Thiên Chúa. Trong dụ ngôn cỏ lùng ở Phúc âm Thánh Mattheo ( 13, 36-38) ̣ Chúa Giêsu đã gọi những hạt giống tốt trong nước Ngài là con Thiên Chúa.

5.Con Thiên Chúa

Hoàng đế Augustus đã để cho mình được xưng tụng tôn thờ là vị thần linh ở phần phía đông đế quốc Roma.

Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa sinh xuống trần gian và luôn luôn được xưng tụng là Con Thiên Chúa.

6. Những người cùng đồng hành

Hoàng đế Augustus năm giữ quyền hành như một vị toàn quyền tấi cao duy nhất. chung quanh ông có 12 vị quân sư phục vụ quyền bính cho hoàng đế.

Chúa Giêsu trái lại kêu gọi thu tập 12 Môn đệ không phải để phục vụ cho quyền bính của mình, nhưng họ sẽ là những người tiếp tục sứ mạng của Chúa ra đi rao giảng nước Thiên Chúa trong trần gian.

******************

Augustus sinh ra làm vua cai trị dân thiên hạ trong đế quốc Roma dựa trên quyền lực sức mạnh của tiền bạc, luật lệ cùng vũ khí.

Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, sinh ra trong trần gian không dựa trên sức mạnh thế lực đó, nhưng trên nền tảng sức lực tinh thần yêu mền cùng mang ơn cứu độ cho con người.

Con người là trung tâm điểm sứ vụ rao giảng nước Thiên Chúa. Vì thế, Ngài đã sinh xuống làm người như mọi người.

Ơn cứu độ giải thoát cho con người khỏi hình phạt tội lỗi là sứ mạng chính yếu Thiên Chúa Chúa muốn mang đến. Chính vì thế Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người mang ánh sáng ơn tha thứ hòa bình xuống trần gian.

Trong công trình sáng tạo thiên nhiên của Thiên Chúa, con người là cao điểm của công trình. Chính vì thế Chúa Giêsu là Logos sáng tạo vĩnh cửu của Thiên Chúa đã trở thành người trong công trình sáng tạo này.

Con Thiên Chúa làm người, để con người giữ địa vị làm người của mình.

Chúc mừng lễ Chúa giáng sinh 2012

Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long

Donnerstag, Dezember 20, 2012

ĐTC: Noi gương Mẹ Maria khiêm nhường vâng phục tiếp đón Chúa Giêsu Kitô


Linh Tiến Khải  12/19/2012

Lễ Chúa Giáng Sinh mời gọi chúng ta noi gương Mẹ Maria sống khiêm nhường, vâng phục tiếp đón Đức Giêsu Con Thiên Chúa làm người, và luôn tin tưởng trong mọi hoàn cảnh vui buồn và đêm đen của cuộc sống.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với 7.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 19-12-2012 tại đại thính đường Phaolô VI. Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã suy tư về đức tin của Mẹ Maria trong mầu nhiệm Tryền Tin. Mở đầu bài huấn dụ ngài nói:

Anh chị em thân mến, trên lộ trình Mùa vọng Trinh Nữ Maria chiếm một chỗ đặc biệt như là Đấng trong một cách thế duy nhất đã chờ đợi việc hiện thực các lời hứa của Thiên Chúa, bằng cách tiếp đón trong đức tin và thịt xác Đức Giêsu Con Thiên Chúa, trong sự vâng phục hoàn toàn thánh ý Chúa.

”Khaire kekharitomene, ho Kyrios meta sou” ”Hãy vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Chúa ở cùng tôn nương” (Lc 1,28). Đó là các lời tổng lãnh thiên thần Gabriel chào Mẹ Maria. Thoạt tiên từ ”khaire” hãy vui lên xem ra là một lời chào thông thường trong môi trường Hy lạp, nhưng nếu được đọc trong bối cảnh của truyền thống kinh thánh, nó có một ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Từ này hiện diện bốn lần trong Thánh Kinh Cựu Ước tiếng Hy lạp, và luôn luôn loan báo tin vui Đấng Cứu Thế đến (x. Sp 3,14; Ge 2,21; Dcr 9,9; Ac 4,21). Như thế lời sứ thần chào Đức Maria là một lời mời gọi vui lên, một nièm vui sâu xa, loan báo chấm dứt buồn thương hiện diện trong thế giới trước cái hạn hẹp của cuộc sống, trước khổ đau, cái chết, sự gian ác, bóng tối của sự dữ xem ra làm lu mờ ánh sáng lòng lành của Thiên Chúa. Đó là một lời chào ghi dấu sự khởi đầu của Phúc Âm, của Tin Mừng.

Nhưng tại sao Đức Maria lại được kêu mời vui lên như thế? Câu trả lời ở trong phần hai của lời chào: ”Chúa ở cùng tôn nương”. Cả ở đây nữa để hiểu rõ ý nghĩa của kiểu nói chúng ta phải quay về Thánh Kinh Cựu Ước. Chúng ta tìm thấy kiểu nói này trong sách ngôn sứ Sôphônia: ”Hãy vui lên hỡi con gái Sion... Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi... Thiên Chúa của ngươi ở giữa ngươi là một đấng cứu độ quyền năng” (Sp 3,14-17). Trong các lời này có một lời hứa kép cho dân, cho con gái Sion: Thiên Chúa sẽ đến như đấng cứu tinh của Israel và sẽ ngự giữa dân Người, trong cung lòng con gái Sion.

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Trong cuộc đối thoại giữa thiên thần và Đức Maria lời hứa đó được hiện thực: Đức Maria được đồng hóa với dân tộc được Thiên Chúa cưới, Người đích thực là con gái Sion; nơi Người thành toàn sự đợi trông Thiên Chúa đến vĩnh viễn, nơi Người Thiên Chúa sống động đến ở.

Trong lời chào của sứ thần, Đức Maria được gọi là ”Đấng đầy ân sủng”; trong tiếng Hy lạp từ ”ân sủng” Kharis có cùng gốc với từ ”niềm vui”. Cả trong kiểu nói này nữa nguồn gốc niềm vui của Đức Maria cũng được minh giải: niềm vui đến từ ân sủng, nghĩa là đến từ sự hiệp thông với Thiên Chúa, đến từ sự gắn liền sống động với Người, đến từ chỗ là nơi ở của Chúa Thánh Thần, hoàn toàn được nhào nặn bởi hoạt động của Thiên Chúa. Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:

Đức Maria là thụ tạo trong một cách thế duy nhất đã mở toang các cánh cửa cho Đấng Tạo Hóa, tự đặt mình trong tay Người, không giới hạn. Mẹ hoàn toàn sống nhờ và trong tương quan với Chúa; trong thái độ lắng nghe, chú ý tiếp nhận các dấu chỉ của Thiên Chúa trên lộ trình của dân Người; Mẹ được tháp nhập vào trong một lịch sử đức tin và hy vọng nơi các lời hứa của Thiên Chúa, làm thành mô cuộc sống của Mẹ. Và Mẹ tự do quy phục lời đã nhận được, quy phục ý muốn của Thiên Chúa trong sự vâng phục của đức tin.

Và Thánh sử Luca trình thuật câu chuyện của Đức Maria qua sự song song với câu chuyện của tổ phụ Abraham. Cũng như tổ phụ Abraham là cha của các kẻ tin, người đã đáp lại lời Thiên Chúa mời gọi ra khỏi miền đất ông đã sống, ra khỏi các an ninh của mình để bắt đầu lộ trình hướng tới một vùng đất không được biết và chỉ được chiếm hữu trong lời Thiên Chúa hứa, Đức Maria hoàn toàn tín thác nơi lời sứ thần của Thiên Chúa nói và trở thành mẫu gương và Mẹ của mọi kẻ tin.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nhấn mạnh một khía cạnh quan trọng khác trong thái độ sống của Mẹ Maria: đó là sự rộng mở tâm hồn cho Thiên Chúa và cho hoạt động của Người trong đức tin bao gồm cả yếu tố của sự tăm tối nữa. Tương quan của con người với Thiên Chúa không xóa bỏ khoảng cách giữa Đấng Tạo Hóa và thụ tạo, không loại trừ điều tông đồ Phaolô khẳng định trước sự khôn ngoan sâu thẳm của Thiên Chúa: ”Các phán quyết của Người ai dò cho thấu, các đường lối của Người ai theo dõi được” (Rm 11.33). Nhưng chính người, mà như Đức Maria, hoàn toàn rộng mở cho Thiên Chúa, đạt tới việc chấp nhận ý muốn của Thiên Chúa, cả khi nó nhiệm mầu và thường không trùng hợp với ý muốn riêng, và là một lưỡi gươm đâu thâu linh hồn, như cụ già Simeon sẽ nói tiên tri cho Đức Maria, khi Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ (x. Lc 2,35). Con đường đức tin của tổ phụ Abraham bao gồm lúc vui sướng vì ơn có con là Igiaác, nhưng cũng bao gồm lúc đen tối, khi ông phải lên núi Moria để hoàn thành một cử chỉ mâu thuẫn: Thiên Chúa đòi ông hiến tế đứa con mà Người vừa mới ban cho ông. Trên núi thiên thần truyền lệnh cho ông: ”Đừng giơ tay chống lại con trẻ, và đừng làm gì nó cả! Giờ đây Ta biết ngươi kính sợ Thiên Chúa và đã không từ chối đứa con duy nhất của ngươi đối với Ta” (St 22,12). Sự tín thác hoàn toàn của Abraham nơi Thiên Chúa, tín trung với các lời hứa, đã không suy giảm, cả khi lời Người bí nhiệm và khó chấp nhận. Đối với Đức Maria cũng thế, đức tin của Mẹ sống niềm vui của việc Truyền Tin, nhưng cũng đi ngang qua việc đóng đinh của Con Mẹ, để sau cùng đạt tới ánh sáng của sự Phục Sinh. Áp dụng vào cuộc sống của kitô hữu Đức Thánh Cha nói:

Cả đối với con đường đức tin của từng người trong chúng ta cũng không khác: nó gặp các lúc có ánh sáng, nhưng cũng gặp các chặng trong đó Thiên Chúa xem ra vắng bóng, sự thinh lặng của Người đè nặng trên con tim chúng ta và ý muốn của Người không hợp với điều chúng ta muốn. Nhưng chúng ta càng rộng mở cho Thiên Chúa, đón nhận ơn đức tin, hoàn toàn đặt tin tưởng nơi Người như tổ phụ Abraham và như Đức Maria bao nhiêu, thì với sự hiện diện của Người Thiên Chúa lại càng khiến cho chúng ta có khả năng sống mọi hoàn cảnh cuộc đời trong an bình và chắc chắn về sự trung thành và tình yêu của Người bấy nhiêu. Tuy nhiên điều này có nghĩa là phải ra khỏi chính mình và các dự án riêng của mình, bởi vì Lời Chúa là ngọn đèn hướng dẫn các tư tưởng và hành động của chúng ta.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã tìm hiểu thêm một khía cạnh khác trong các trình thuật thời thơ ấu của Đức Giêsu, khi thánh Giuse và Mẹ Maria dâng Chúa Hài Nhi trong Đền Thờ theo luật Môshê: ”Mọi con đầu lòng phải dâng cho Chúa” (X Lc 2,22-24). Cử chỉ này của Thánh Gia Nagiaret còn có một ý nghĩa sâu xa hơn nữa, nếu chúng ta đọc trình thuật dưới ánh sáng khoa học tin mừng của Chúa Giêsu 12 tuổi, được tìm thấy trong Đền Thờ đang thảo luận giữa các bậc thầy, sau ba ngày tìm kiếm. Đáp lại các lời âu lo của Đức Mẹ và thánh Giuse: ”Con ơi tại sao Con đã làm cho cha mẹ điều này? Này cha và mẹ đã lo lắng tìm Con”, là câu trả lời bí ẩn của Chúa Giêsu ”Tại sao cha mẹ lại tìm Con? Cha mẹ lại không biết là Con phải lo các việc của Cha Con sao?” (Lc 2,48-49). Đức Maria phải canh tân đức tin sâu xa, với nó Mẹ đã nói ”có” trong biến cố Truyền Tin; Mẹ phải chấp nhận quyền ưu tiên của Người Cha thật của Đức Giêsu; phải biết để cho Người Con mà Mẹ đã sinh ra ấy được tự do đi theo sứ mệnh của Người. Và tiếng ”có” của Mẹ Maria đối với ý muốn của Thiên Chúa trong sự vâng phục của đức tin, lập lại dọc dài trong suốt cuộc sống của Mẹ, cho tới lúc khó khăn nhất là lúc của Thập Giá.

Mẹ Maria đã có thể sống con đường này bên cạnh Con Mẹ với đức tin vững vàng, cả trong đêm đen cũng không mất niềm trông cậy. Trong ngày Truyền Tin Mẹ bối rối khi nghe các lời của sứ thần. Đó là sự kính sợ mà con người cảm thấy trước sự gần gũi của Thiên Chúa, chứ không phải thái độ của người sợ hãi điều Thiên Chúa có thể xin. Mẹ Maria suy nghĩ về ý nghĩa lời chào của sứ thần. Trong tiếng Hy lạp được Phúc âm dùng để định nghĩa sự suy nghĩ ”dielogizeto” nhắc tới gốc của từ ”đối thoại”. Điều này có nghĩa là Mẹ Maria bước vào trong sự đối thoại thân tình với Lời Chúa đã được loan báo cho Mẹ, không coi nó một cách hời hợt mà dừng lại để cho nó thấm vào trong tâm trí, hầu hiểu điều Chúa muốn nơi Mẹ, hiểu ý nghĩa của lời loan báo.

Mẹ Maria còn có một thái độ nội tâm khác trước hành động của Thiên Chúa: đó là ”gìn giữ mọi sự trong lòng và suy gẫm” như kể trong trình thuật Chúa Giêsu sinh ra. (Lc 2,19). Có thể nói Mẹ ”giữ chung”, ”để chung” trong tim tất cả mọi biến cố đang xảy ra cho Mẹ, đặt để từng yếu tố, từng lời nói, từng sự kiện vào trong cái toàn thể và đối chiếu, duy trì, bằng cách thừa nhận rằng tất cả đến từ thánh ý của Thiên Chúa. Mẹ biết nhìn vào chiều sâu để cho các biến cố gọi hỏi, soạn thảo chúng, phân định chúng, và chiếm hữu được sự hiểu biết, mà chỉ có đức tin mới bảo đảm được thôi. Đó là sự khiêm tốn thẳm sâu của đức tin vâng lời của Mẹ Maria, tiếp nhận cả những diều Mẹ không hiểu trong hành động của Thiên Chúa, bằng cách để cho Chúa rộng mở tâm trí của Mẹ.

Lễ trọng Giáng Sinh mà chúng ta sắp cử hành mời gọi chúng ta sống sự khiêm tốn và vâng phục này của đức tin. Vinh quang của Thiên Chúa không biểu lộ trong chiến thắng và quyền bính của một vì vua, không rạng ngời trong một thành phố danh tiếng hay trong một dinh thự sang trọng, nhưng đến ở trong cung lòng của một trinh nữ và tự mạc khải trong sự nghèo nàn của một trẻ thơ. Cả trong cuộc sống của chúng ta nữa, sự toàn năng của Thiên Chúa thường hành động trong thinh lặng với sức mạnh của chân lý và tình yêu. Đức tin nói với chúng ta rằng sau cùng quyền năng không tự vệ của Trẻ Thơ đó sẽ chiến thắng tiếng ồn ào của các quyền lực trần gian.

Chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau Đức Thánh Cha đã chúc tất cả một lễ Giáng Sinh tươi vui an bình. Sau cùng ngài cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Dienstag, Dezember 11, 2012

Lịch sử câu chuyện về Đức Mẹ Guadalupe trong bối cảnh Tân Phúc Âm Hóa

Đồng Nhân  12/9/2012

Ngày 12 tháng 12, Giáo Hội trên toàn thế giới kính nhớ Đức Mẹ Guadalupe, bổn mạng của các nước Mỹ Châu La Tinh.

Câu chuyện về Đức Mẹ Guadalupe đã trôi qua hàng mấy thế kỷ, nhưng vẫn còn mang tính chất thời sự vì đối với nhiều người, câu chuyện về Đức Mẹ Guadalupe có ý nghĩa đặc biệt trong bối cảnh Tân Phúc Âm Hóa.

Cha Jose Manuel Suazo, Giám Đốc Học Viện Mễ Tây Cơ ở Rôma, giải thích: "Đức Maria có thể chuyển tiếp một thông điệp Kitô Giáo đến với một nền văn hóa không-Kitô".

Đức Mẹ đã hiện ra vào năm 1531 với một người thổ dân địa phương khiêm tốn tên là Juan Diego khi anh đi ngang qua một ngọn đồi.

Đức Mẹ đã nhờ anh chuyển đến hàng giáo phẩm và dân chúng tại đây ao ước của Mẹ là muốn có một nhà thờ tại đó để tôn vinh con Mẹ.

Nhưng khi Juan Diego nhận lời loan truyền thông điệp đó, anh vấp phải sự hoài nghi từ Tổng Giám mục, Friar Juan de Zumarraga.

Cha Jose Manuel Suazo nói tiếp: "Vị Tổng giám mục đã yêu cầu một dấu chỉ chứng minh lòng trung thực của Juan Diego. Thực tế, ngài đã nhận được không phải là một --- nhưng --- đến ba phép lạ. Đầu tiên là sự xuất hiện của hoa hồng ".

Hoa hồng đã nở rộ trên đỉnh đồi Tepeyac, ngay giữa mùa đông. Theo lời Đức Mẹ, Juan Diego đã chọn lấy một vài cành hoa hồng khác nhau để đem đến cho Đức Tổng Giám Mục. Nhưng trước khi đem đến cho ngài, chú của anh ngã bệnh và gọi Juan Diego đến gấp để đi mời một linh mục vì ông đang hấp hối.

Trên đường đi, Đức Mẹ Guadalupe lại xuất hiện và Juan Diego xin lỗi vì đã không mang hoa hồng đến cho Đức Cha vì bệnh tình của ông chú.

Cha Jose Manuel Suazo tường thuật tiếp là: "Đức Trinh Nữ Maria của chúng ta đã trả lời, ‘Ta không phải là mẹ của con, để con có thể tâm sự sao? Ta chăm sóc và lo lắng cho con. Đừng lo, chú Juan Bernardino của con đã được chữa lành. "

Phép lạ chữa lành kỳ diệu dẫn đến phép lạ thứ ba. Ngày 12 tháng 12 năm 1531, Juan Diego đến tòa tổng giám mục, anh dùng chiếc áo choàng của mình để gói những bông hoa hồng đã hái trên đồi.

"Khi Juan Diego đến trước Đức Tổng Giám Mục Friar de Juan Zumarraga, anh đưa những bông hoa ra như một dấu chỉ cụ thể. Và khi mở chiếc áo choàng của mình, những bông hoa hồng rơi ra và kỳ diệu thay hình ảnh Đức Mẹ Guadalupe xuất hiện ".

Hình ảnh trên chiếc áo choàng, miêu tả Đức Mẹ Guadalupe với mầu da ô liu và ăn mặc như một công chúa Aztec đã dẫn đến việc theo đạo Công Giáo của hàng loạt người dân bản địa Mexico.

Cha Jose Manuel Suazo kết luận: "Đức Nữ Đồng Trinh Maria đã đi trước chúng ta rất xa trong lãnh vực Tân Phúc Âm Hóa khi trình bày Tin Mừng một cách hoàn toàn mới mẻ."

Montag, Dezember 10, 2012

Mùa Vọng của Thiên Chúa và con người


Lm. Thái Nguyên   12/9/2012

Mùa vọng là thời gian mong chờ Chúa đến, nhưng đừng quên Chúa là Đấng đã chờ đợi ta trước khi ta chờ đợi Ngài; Đấng đã hy vọng về ta, để nhờ đó ta biết hy vọng vào Ngài. Mọi sự đều là sáng kiến và khởi đầu của Thiên Chúa, Đấng quyền năng vô biên và yêu thương ta vô bờ. Quyền năng và tình yêu Ngài là sự bảo đảm duy nhất cho niềm hy vọng của chúng ta. Ngoài Chúa ra, mọi hy vọng vào trần thế này hay bất cứ thần tượng nào cũng sẽ là vô vọng.

I. MÙA VỌNG : THIÊN CHÚA HY VỌNG VỀ CON NGƯỜI.

1. Do hy vọng và cho hy vọng

Do hy vọng, Thiên Chúa đã tác sinh con người giống hình ảnh Ngài, cho họ bước vào vận hành sự sống của chính Ngài.

Cho hy vọng, Thiên Chúa đã không ngừng hứa hẹn và kết ước yêu thương với loài người, dù cho họ có ngàn lần sa ngã lỗi phạm và xa bỏ Ngài.

- Ngay từ Cựu Ước, Thiên Chúa đã phán qua tiên tri Ezekiel : “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn trở lại và được sống”.

- Qua dân Israel, Thiên Chúa không ngừng tái lập lại các Giao ước mà con người luôn phá vỡ, do sự bất trung bất tín với Thiên Chúa, và bất nhân bất nghĩa với nhau.

Vì vậy, Mùa Vọng là mùa qua đó Giáo Hội muốn khắc họa rõ hơn dung mạo của Thiên Chúa: Đấng đã hy vọng về con người qua lịch sử dân Chúa; Đấng vẫn hy vọng về con người trong lịch sử Giáo Hội; và Đấng mãi hy vọng về con người trong chính cảnh huống cụ thể của từng đời người.

Dung mạo Thiên Chúa ấy được thể hiện nơi Đức Kitô Đấng đã đến viếng thăm nhân loại lần thứ nhất trong mầu nhiệm Nhập Thể. Ngài đã đến cách lặng lẻ và sống âm thầm giữa mọi người, đã đảm nhận lấy thân phận con người cho đến tột cùng bằng cái chết để rồi Phục Sinh mở ra con đường cứu độ cho những kẻ tin. Và Ngài hứa sẽ đến lần thứ hai vào ngày cánh chung, để đặt mỗi người đối diện với chính Ngài như chuẩn mực phân chia đôi bờ thiện ác, và đặt mỗi người đối diện với chính mình như trách nhiệm cuối cùng đối với ơn cứu rỗi. Ngày đó là ngày thiết lập công bình tuyệt đối, nên: “Thiện ác đối đầu chung hữu báo”.

Lần thứ nhất do hy vọng, Chúa đến gieo mầm cứu rỗi. Lần thứ hai cho hy vọng, Người đến thu hoa lợi từ những gì đã gieo. Tuy nhiên, giữa hai lần đến chính thức ấy thì Đức Kitô vẫn âm thầm đến với chúng ta qua từng biến cố, từng con người, từng hoàn cảnh, từng sự việc... Nhưng bất ngờ lớn nhất giữa những cái bất ngờ vẫn là giờ và cách Chúa đến với mỗi cá nhân trong cảnh tranh sáng tranh tối của cuộc đời. Chúa đến bất ngờ không phải để bắt chợt chúng ta, nhưng muốn thấy được tình yêu của chúng ta đã triển nở và đang sinh hoa kết trái như lòng ước mong.

2. Thiên Chúa – Người Cha luôn hy vọng về con cái

Việc Thiên Chúa hy vọng vào con người được mạc khải rõ nhất qua dụ ngôn Người Cha nhân hậu (Lc 15,11-32). Thiên Chúa qua hình ảnh người Cha chấp nhận cho con mình tự do ra đi, chấp nhận cho con mình từ bỏ mình, để rồi từ đó trông ngóng, chờ mong và hy vọng không ngừng ngày nó trở về… Khi đứa con ngông cuồng dở sống dở chết trở về thì từ ở đàng xa người Cha đã thấy, ông vô cùng vui mừng chạy ra đón con...

Quả thực, Thiên Chúa đã tự xóa mình trước con người. Ngài là Đấng quyền năng vô biên, nhưng cũng là Đấng khiêm hạ vô ngần. Hy vọng có một danh xưng khác là sự khiêm hạ. Jean Tauler cho biết: “Sự khiêm hạ là nhân đức ẩn tàng nơi sự sâu thẳm của Thiên Chúa”.

Mặc dù là Thiên Chúa toàn năng, nhưng Ngài không muốn chiếm giữ hay chiếm hữu tình yêu của con người nếu họ không muốn. R. Tagore đã nghiệm ra chân lý này, và ông diễn đạt lời của Đấng Toàn Năng như sau: “Ta yêu người và xin người cho lại một tấm tình. Chúng ta khao khát tình yêu, vì cả hai cùng thiếu thốn. Ta là Tạo hóa, có thể tạo ra tất cả, trừ tình yêu tự nguyện, tình yêu tận hiến”.

Đó không phải là điều mà Chúa Giêsu nói lên trên Thập giá sao? “TA KHÁT”. Khát điều gì? Chẳng lẽ Ngài khát một chút nước trước khi chết? Cái khát tận cùng đó không gì khác hơn là khát tình yêu của con người.

Do đâu mà chúng ta có thể nói về niềm hy vọng của Thiên Chúa về con người? Thưa do tình yêu vô hạn của Thiên Chúa là Cha. Trong tiếng Dothái, có hai từ để chỉ tình yêu của Thiên Chúa: Hesed và Rachamim.

- Hesed nói lên một tình yêu có màu sắc nam tính, cho thấy một Thiên Chúa uy dũng và tín thành, là sự bảo đảm cho ta.

- Rachamim được Cựu Ước sử dụng, có nghĩa đen là “lòng dạ người mẹ”, nói lên một tình yêu có màu sắc nữ tính: tình yêu của một người mẹ, không phải vì công trạng nào của con, nhưng chỉ vì nó là con mình (x. Is 49,14-16 ; 63,16 ; Gr 31,20 ; Tv 131). Tình yêu phát xuất từ lòng dạ người mẹ là một tình yêu đầy lòng trắc ẩn (compassion). Thiên Chúa đầy lòng trắc ẩn nên hằng chờ mong và hy vọng nơi con cái mình. Ngài yêu thương như một người mẹ, bằng một tình yêu nhưng không, một tình yêu trung tín dù con người bất tín bất trung.

Dù mọi người đã hoàn toàn thất vọng về ta, và dù chính ta cũng đã thất vọng về mình, nhưng Thiên Chúa vẫn luôn hy vọng vào ta. Chính tình yêu vô biên của Thiên Chúa làm cho Ngài hy vọng về chúng ta, và rồi cũng chính tình yêu đó mà Ngài cho chúng ta hy vọng vào Ngài. Chính vì lạ lùng trước một Thiên Chúa hy vọng về con người, khiến con người hy vọng vào Thiên Chúa.

II. MÙA VỌNG : CON NGƯỜI HY VỌNG VÀO THIÊN CHÚA

1. Tỉnh thức trong hy vọng

Tỉnh thức trong hy vọng là nhận thức rằng đời mình có một Thiên Chúa là Cha yêu thương chí tình, nên đời mình có một vận mệnh tương lai sáng ngời. Nếu dụ ngôn người Cha nhân lành cho thấy Thiên Chúa hy vọng về con người, thì cũng chính dụ ngôn ấy cho thấy con người hy vọng vào Thiên Chúa. Tiếc thay, đứa con quay về trước tiên không phải vì yêu thương Cha nó, mà chỉ vì đói rách, khốn cùng, nhục nhã, tuyệt vọng trước thế thái nhân tình, và nhất là đứng trước một tương lai bế tắc không lối thoát. Dù vậy người Cha vẫn vui mừng khôn tả để đón nhận con mình, vì nó là con, thế thôi.

Ngạo nghễ thay khi đứng trước ngưỡng cửa của văn minh tiến bộ của thế kỷ 19, với nhiều thành tựu khoa học và kỹ thuật lớn lao, người ta đã trương ra khẩu hiệu: “Con người là tương lai của con người’’. Điều này có nghĩa là con người bất cần đến Thiên Chúa, hay chẳng có Thiên Chúa nào khác ngoài chính con người là chủ vận mệnh tương lai của mình. Nhưng tương lai ngay sau đó là gì? Thưa là hai cuộc thế chiến đẩm máu, đem lại tang thương khốn cùng và để lại những hậu quả thảm khốc trên đời sống con người.

Chỉ hy vọng vào con người thôi là sự hão huyền trên mọi hão huyền. Nói như thế không phải ta thất vọng về con người, nhưng phải nhận ra sự giới hạn của khả năng con người và lòng người, để đừng rơi vào ảo tưởng. Chẳng ai và chẳng có cơ cấu hay chế độ nào có thể bảo đảm tương lai cho loài người ngoài một mình Thiên Chúa. Đó là kinh nghiệm của nhân loại trong nhiều sự kiện lịch sử của xã hội cũng như cá nhân. Thánh Kinh cũng cho thấy: “Không gì nham hiểm và bất trị như lòng người, ai dò thấu được?” (Gr 17, 9).

Trong Thánh Kinh, sự kiện sụp đổ tháp Babel cũng chính là biểu tượng sụp đổ niềm hy vọng của con người vào con người mà không cần đến Thiên Chúa. Đó cũng là kinh nghiệm sống chết của người con hoang đàng trước tình cảnh bi đát bị đồng loại bỏ rơi, đến nỗi muốn ăn chút cám heo thừa thãi mà người khác cũng không cho.

Kết cục chỉ có một mình “Thiên Chúa là tương lai của con người”. Theo nghĩa này, đúng là những ai không biết đến Thiên Chúa, cho dù người ấy có bao thứ hy vọng, thì cuối cùng cũng chỉ là vô vọng (x. Eph 2,12). Niềm hy vọng vững vàng, bất chấp mọi thất vọng chỉ có thể là Thiên Chúa – Đấng đã yêu thương chúng ta và yêu thương “đến cùng” (x Ga 13:1; 19, 30). Chỉ tình yêu Ngài mới ban cho chúng ta khả năng kiên vững ngày qua ngày, mà không đánh mất đi nhiệt tình của niềm hy vọng trong một thế giới không hoàn thiện tự bản chất.

Chỉ tình yêu của Thiên Chúa mới bảo đảm cho sự hiện hữu đích thực, là sự sống “viên mãn” mà ta vẫn trông đợi. Dù con đường chúng ta đi hôm nay phải ù qua bao thung lũng âm u, thì vẫn là con đường hy vọng. Niềm hy vọng vào Thiên Chúa cho ta vượt vượt qua mọi biên giới của sự thất vọng.

2. Ba tiêu chí để sống niềm hy vọng

“Người hy vọng là người cầu nguyện. Đối tượng của cầu nguyện cũng là đối tượng của niềm hy vọng. Người hy vọng là cộng tác viên của Thiên Chúa. Ngài tìm gọi họ để hoàn tất việc tạo dựng và cứu chuộc của Ngài” (ĐHV 964). Để sống niềm hy vọng vững vàng vào Thiên Chúa, trong Thông điệp Spe Salvi, Đức Bênêđictô đưa ra ba tiêu chí: Cầu nguyện; dám dấn thân và chịu đau khổ; hướng đến cuộc phán xét.

- Cầu nguyện như trường học của niềm hy vọng. Con người đã được dựng nên cho Thiên Chúa, nhưng tâm hồn con người lại quá hẹp hòi, nhỏ bé để đón nhận Ngài. Vì thế, cầu nguyện là tập mở rộng lòng mình ra với Thiên Chúa, và nhờ đó cũng mở rộng lòng ra với đồng loại. Nhờ cầu nguyện, ta biết thanh luyện ước muốn và hy vọng của mình. Cầu nguyện làm thức tỉnh lương tâm ta, cho ta khả năng xóa mờ cái “tôi” ảo tưởng của mình, để có thể lắng nghe chính Chúa và vững tâm hy vọng vào Ngài.

- Đau khổ như những môi trường học hỏi hy vọng. Thánh Phêrô đã nói với chúng ta: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ” (1Pr 4, 13). Nhờ kết hợp với Đức Kitô trong đau khổ mà ta được tinh luyện để sống đức tin trưởng thành hơn, góp phần làm cho thế giới này được tươi sáng và nhân bản hơn. Đau khổ vì lòng yêu mến đem lại cho ta niềm hy vọng mạnh mẽ hơn.

- Hướng đến cuộc phán xét như phương cách sống hy vọng. Từ thời xa xưa, viễn ảnh cuộc phán xét đã ảnh hưởng đến các Kitô hữu trong cuộc sống hằng ngày. Họ coi cuộc phán xét như là tiêu chuẩn để tổ chức lại đời sống hiện tại của mình; như một sự mời gọi hoán cải tâm hồn; và như niềm hy vọng vào sự công bình của Thiên Chúa.

Như vậy hy vọng vào Thiên Chúa là cách sống rất hiện sinh và cụ thể để làm đẹp cuộc sống mỗi người hôm nay.

3. Mẹ Maria - Ngôi sao hy vọng

Bằng một thánh thi được viết vào khoảng Thế kỷ IX, Giáo Hội đã chào mừng Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa như “Ngôi sao biển”: Ave maris stella.

Cuộc đời như hành trình trên đại dương lịch sử, lắm khi u tối và đầy bão táp, cần có những ngôi sao đích thực dẫn đường cho cuộc đời ta. Chắc hẳn Đức Kitô là ánh sáng chính danh, là mặt trời chính ngọ bừng sáng trên mọi bóng tối của lịch sử. Nhưng để đi tới Ngài, chúng ta cần đến những điểm sáng gần gũi, là những người đang phản ảnh ánh sáng của Đức Kitô, để giúp ta dễ định hướng cho lộ trình của mình. Vậy ai có thể hơn Đức Maria, là ngôi sao hy vọng cho chúng ta.

Đức Maria là con người tuyệt vời, vì đã sống niềm hy vọng tuyệt hảo. Mẹ tuyệt trần vì đã tin vào lời hứa của Thiên Chúa tuyệt đối. Mẹ tuyệt mỹ vì đã được cưu mang và sinh hạ Đấng là niềm hy vọng tuyệt luân của Israel và nhân loại.

Đẹp thay hình ảnh một Từ Mẫu đã vững vàng đứng dưới chân thập giá của con mình, và đã trở thành Mẹ của những kẻ tin. Lưỡi gươm đâm thâu qua trái tim Chúa Giêsu cũng là đâm thâu qua lòng Mẹ để niềm hy vọng cứu độ lan tràn tới mọi tâm hồn. Niềm hy vọng đó đã đạt tới đích điểm là niềm vui Phục Sinh của ngày thứ nhất trong tuần, để Mẹ thành Mẹ Thiên Chúa.

Đức Maria quả thật là Ngôi sao hy vọng, là Mẹ của hy vọng, là mẫu mực của chúng ta, những người gieo hy vọng vào đời sống nhân loại.

III. SỐNG MÙA VỌNG, CHÚNG TA TRỞ NÊN NHỮNG NGƯỜI GIEO HY VỌNG

Đức Hồng Y Px. Nguyễn Văn Thuận đã xác định như sau: “Người Kitô hữu là ánh sáng giữa đen tối, là muối sống giữa thối nát, và là một hy vọng giữa một nhân loại thất vọng”. (954). Chắc chắn câu này ngài họa lại lời Chúa Giêsu: “Chính anh em là muối cho đời” (Mt 5, 13). “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5, 14).

Thánh Phaolô cũng đã kêu gọi: “Giữa một thế hệ gian tà và sa đọa, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2, 15). Bởi vậy, “Không thể quan niệm được một Kitô hữu mà không say mê đem niềm hy vọng ngập tràn thế giới.” (ĐHV 972).

Chị Chiara Lubich với kinh nghiệm nội tâm, cũng nói với chúng ta rằng: “Với hy vọng, các bạn sẽ luôn luôn hạnh phúc, và các bạn sẽ làm cho mọi người hạnh phúc”. Nên nhớ đây là kinh nghiệm sống niềm hy vọng và rắc gieo niềm hy vọng, chứ không phải là hiểu biết suông về niềm hy vọng. Chúng ta có thể hiểu biết rất nhiều khi nói về niềm hy vọng, nhưng hiểu biết đó sẽ trở thành hư không, nếu nó không được kinh nghiệm, cảm nghiệm, chứng nghiệm, để trở thành sức sống cho tâm hồn mình và cho mọi người chung quanh.

Gieo hy vọng không chỉ là gieo tư tưởng hay ý thức cho người khác, mà chính yếu là gieo hạt mầm sự sống cho một tâm hồn, nên đòi hỏi hy sinh, quên mình. Câu chuyện ngắn sau đây của O Henry cho ta thấy được tâm tình cao thượng và hy sinh cao cả của người gieo niềm hy vọng:

Có một nữ bệnh nhân chỉ còn biết đếm ngày sống thoi thóp của mình bằng những chiếc lá rụng dần từ một cành cây nhìn thấy qua khung cửa sổ. Đến khi trên cành chỉ còn chiếc lá duy nhất, thì cô nói với người thân rằng: “Nếu đêm nay, chiếc lá cuối cùng không còn nữa, em sẽ chết”. Niềm hy vọng của cô gái đang tắt dần, chỉ còn lại những giây phút tuyệt vọng. Ở phòng trọ bên dưới có một họa sĩ tình cờ nghe được. Thế là nữa đêm, giữa trời tuyết lạnh, người họa sĩ bắc thang leo lên vẽ một chiếc lá vàng ở bức tường sát cành cây khô khi chiếc lá thật đã rụng xuống. Sáng hôm sau, người bệnh thức giấc, vội nhìn ra ngoài, thấy chiếc lá vàng vẫn còn đó. Thế là cô an tâm và bảo: “Em vẫn còn có thể sống thêm ngày nữa”.

Chiếc lá vàng được vẽ đã cứu mạng sống người con gái đang thoi thóp chờ chết. Không biết cô còn sống thêm được bao lâu, nhưng cô có ngờ đâu mạng sống của cô đã được đánh đổi bằng mạng sống của người họa sĩ, vì anh ta đã bị lạnh cóng giữa trời đêm băng giá, và đã âm thầm từ giã cõi đời.

Kitô hữu không phải là người vẽ lên cho đời chiếc lá hy vọng sao? Vì chúng ta là hiện thân của Đấng là niềm hy vọng cho sự sống bất diệt của nhân loại. Do đó, người gieo hy vọng không thể mang tính cách nào khác ngoài tính cách của Đức Kitô: là con người dấn thân phục vụ và hy sinh chính mình vì tha nhân.

Trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô, chúng ta hãy làm sáng lên niềm hy vọng cho thế giới hôm nay, một thế giới còn đang bị bao phủ bởi bóng đêm sự chết.

Kìa! Đức Kitô đang đến, hãy ra đón Người. (x. Mt 25, 6)

Sonntag, Dezember 09, 2012

Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội Vì Đặc Ân Của Thiên Chúa


Linh Tiến Khải    12/8/2012


VATICĂNG: Trưa 8-12-2012 lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã đọc kinh Truyền Tin với hàng ngàn tín hữu tại quảng trường thánh Phêrô. Ngài nói: Nhờ đặc ân của Thiên Chúa Đức Mẹ không mắc tội tổ tông truyền. Nơi Mẹ, nhân loại và lịch sử rộng mở cho Thiên Chúa.

Thiên Chúa đã tìm thấy nơi Mẹ sự lắng nghe, tiếp nhận, đáp trả và tiếng “có” sẵn sàng công tác hoàn toàn, cho phép Ngôi Lời nhập thể và đến ở giữa chúng ta. Mẹ Maria đại diện cho dân Israel mới, mà Thánh Kinh Cựu Ưóc miêu tả với biểu tượng hiền thê. Trong thư gửi tín hữu Êphêxô thánh Phaolô nói về hôn nhân và khẳng định rằng: “ Chúa Kitô đã yêu Giáo Hội và hiến mình cho Giáo Hội để làm cho Giáo Hội trở thành thánh thiện, bằng cách thanh tẩy Giáo Hội bằng nước và lời hằng sống, để giới thiệu với chính Người Giáo Hội hoàn toàn vinh quang, không tì ố, không vết nhăn hoặc bất cứ khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền” (Ep 5,25-27).

Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Các Giáo Phụ đã khai triển hình ảnh này và giáo thuyết của Mẹ Vô Nhiễm đã nảy sinh, trưóc hết quy chiếu về Giáo Hội đồng trinh – me và sau đó quy chiếu về Mẹ Maria. Vì thế giáo phụ Efrem ngưới Siri mới viết một cách thi vị như sau: “Như chính các thân xác đã phạm tội và chết và, đất mẹ của chúng, bị chúc dữ (x, St 3,17-19), thì nhờ thân xác này là Giáo Hội không thể hủy hoại, đất của nó đã được chúc lành ngay từ đầu. Đất đó là thân xác Đức Maria, đền thờ trong đó một hạt giống đã được đặt vào” (Diatesaron 4,15: SC 121,102).

Ánh sáng dãi tỏa từ gương mặt của Đức Maria giúp chúng ta hiểu ý nghĩa đích thật của tội tổ tông. Thật vâỵ, nơi Mẹ Maria sống và hoạt động một cách tràn đầy tương quan với Thiên Chúa mà tội lỗi đã bẻ gẫy. Nơi Mẹ không có sự đối nghịch nào giữa Thiên Chúa và con người Mẹ, mà có sự hiệp thông tràn đầy mạnh mẽ. Có một tiếng “có” hai chiều của Thiên Chúa đối với Mẹ và của Mẹ đối với Thiên Chúa. Mẹ Maria khỏi tội lỗi vì Mẹ hoàn toàn là của Thiên Chúa, hoàn toàn thuộc về Người. Mẹ tràn đầy Thánh Sủng và Tinh Yêu của Thiên Chúa.

Kết luận, giáo lý vế sự Vô Nhiễm Thai của Mẹ Maria diễn tả sư chắc chắn của niềm tin rằng các lời hứa của Thiên Chúa đã được thực hiện: rằng giao ước của Người không thất bại, nhưng đã sinh ra một gốc rễ thánh thiện, từ đó nảy mầm Qủa Phúc của toàn vũ trụ, là Đức Giêsu Đấng Cứu Thế. Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội chứng minh cho thấy rằng Thánh Sủng có khả năng dấy lên một câu trả lời, rằng sự trung thành của Thiên Chúa biết sinh ra một đức tin đích thực và tốt lành.

** Sau Kinh Truyền Tin ĐTC đã bày tỏ tình liên đới với các anh chị em nạn nhân bão lụt tại Philippines. Ngài cầu nguyện cho các nạn nhân, cho gia đình họ và các người phải di tản. ĐTC cầu mong đức tin và tình bác ái huynh đệ là sức mạnh giúp đối phó với thử thách khó khăn này.

Vào bốn giờ chiều, theo một thói quen đã có từ nhiều thập niên qua, Đức Thánh Cha đã đến quảng trường Tây Ban Nha để kình viếng tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm và dâng hoa cho Đức Mẹ. Ngỏ lời trong dịp này ngài nói việc sùng kính Đức Mẹ hiệp nhất mọi người, đặc biệt trong Năm Đức Tin này.

Biến cố Thiên Chúa nhập thể làm người và cuộc gặp gỡ của sứ thần với Trinh Nữ Vô Nhiễm đã xảy ra trong sự thinh lặng hoàn toàn. Điều thật sự quan trọng thường đi qua trong thầm lặng, không ai trông thấy và nhận ra. Và sự trầm lắng đó phong phú hơn nhịp điệu ồn ào của các thành phố của chúng ta ngày nay. Khuynh hưóng hiếu động khiến cho chúng ta không có khả năng dừng lại, yên tĩnh, lắng nghe sự thinh lặng, trong đó Thiên Chúa cho nghe được tiếng nói kín đáo của Người. Trong ngày truyền tin Đức Maria hoàn toàn cầm trí và rộng mở cho việc lắng nghe Thiên Chúa. Nơi Mẹ không có gì ngăn che, cản trở và xa cách với Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa cuộc sống vô nhiễm nguyên tội của Mẹ.

Con tim của Mẹ ở trong tim Thiên Chúa một cách toàn vẹn, không phân cách, không có bóng dáng sự ích kỷ, nhưng hoàn toàn đồng điệu vỏi Thiên Chúa.

Nơi đây, Mẹ Vô Nhiễm nhắc cho chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa nói với chúng ta trong thinh lặng. Để nhận ra chương trình của Người đối với cuộc sống cá nhân và xã hội, cần phải xuống một mức sâu xa hơn nữa, nơi các sức mạnh luân lý và tinh thần hoạt động, chứ không phải các sức mạnh kinh tế chính trị. Mẹ mời chúng ta xuông đó để đồng điệu với hoạt động của Thiên Chúa.

Điều thứ hai Đức Mẹ Vô Nhiễm nói với chúng ta: đó là ơn cứu rỗi không phải là công trình của con người, khoa học, kỹ thuật và ý thức hệ, nhưng đến từ Ơn Thánh. Ơn Thánh có nghĩa là Tinh Yêu trong sự tinh tuyền và xinh đẹp của nó, là chính Thiên Chúa như được Thanh Kinh kể trong lích sử cứu rỗi và thánh toàn nơi Đức Giêsu Kitô.

Mẹ Maria được gọi là Đấng “đầy ơn phước”. Căn cưóc này của Mẹ nhắc cho chúng ta nhớ tới quyền tối thượng của Thiên Chúa trong cuộc sông chúng ta và trong lich sử thế giới. Nó nhắc chúng ta nhớ rằng quyền năng tinh yêu của Thiên Chúa mạnh hơn sự dữ và có thể lấp đầy các trống rỗng, mà sự ích kỷ gây ra trong lịch sử của con người, của các gia đình, các quốc gia và của thế giới. Các trống rỗng ấy có thể trở thành các hoả ngục, nơi cuộc sống con người bị kéo xuống thấp và sự hư vô, mất đi ý nghĩa và ánh sáng. Các phương thuốc gỉa mà thế giớí đề để lấp đầy các trống rỗng ấy - biểu tượng là ma túy - thật ra chỉ đào rộng thêm hố sâu. Chỉ có tình yêu chứa đựng sự trong sạch của Ơn Thánh mới có thể cứu con người khỏi sư sa ngã này, tình yêu của Thiên Chúa biến đổi và canh tân, trao ban dưỡng khí mới, khí trọng lành và năng lực mới cho các lá phổi bị nhiễm độc. Mẹ Maria nói với chúng ta rằng cho dù con người có rơi xuống sâu tới đâu đi nữa nó cũng không bao giờ quá sâu đối với Thiên Chúa là Đấng đã xuống các vực sâu. Cho dù trái tim con người có sai lạc tới dsâu đi nữa, Thiên Chúa “vẫn luôn luôn lớn lao hơn trái tim của chúng ta” (1 Ga 3,20).Hơi thở dịu dàng của Thánh Sủng có thể đánh tan các đám mây đen tối nhất, và cả trong các tinh trạng vô nhân nhất nó cũng có thể khiến cho cuộc sống lại xinh đẹp và phong phú.

Điểm thứ ba Mẹ Maria Vô Nhiễm nói với chúng ta đó là niềm vui đích thật tỏa lan trong con tim khỏi tội lỗi. Tội lỗi đem theo trong chính nó một nỗi buồn tiêu cực khiến cho con người tự khép kín trong chính mình.

Ơn Thánh đem lại niềm vui thật, niềm vui không tùy thuộc nơi sự chiếm hữu vật chất, mà đâm rễ trong nơi sâu thẳm của con người, mà không có gì và không ai có thể lấy mất được. Kitô giáo, một cách nòng cốt, là một “tin mừng”, “tin vui”.

Kitô giáo loan báo chiến thắng của Ơn Thánh trên tội lỗi, của sự sống trên cái chết. Nếu nó bao gồm các khước từ, một kỷ luật của tâm trí và hành động là bởi vì nơi con người có gốc rễ độc hại của ích kỷ gây đau đớn cho chính mình và cho người khác. Vì thế cần phài học biết nói không với ích kỷ và nói có với tình yêu đích thật. Niềm vui của Mẹ Maria tràn đầy, bởi vì trong tim Mẹ không có bóng dáng tội lỗi. Niềm vui ấy trùng hợp với sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc sống của Mẹ… Trong Mùa Vọng này xin Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội dậy cho chúng ta biết lắng nghe tiếng Thiên Chúa nói trong thinh lặng và tiếp nhận Ơn Thánh của Chúa, giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và mọi ích kỷ, để hưởng nếm niêm vui đích thật. Xin Mẹ Maria đầy ơn phúc cầu cho chúng ta (SD 8-12-2012)
Nguồn: http://www.vietcatholic.net/News/Html/101478.htm

Donnerstag, Dezember 06, 2012

Nhân lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm: Vatican II và tước hiệu Mẹ Giáo Hội của Đức Maria
Vũ Văn An   12/6/2012


Không ai chối cãi người Công giáo có lòng sùng kính đặc biệt đối với Ðức Maria. Và lòng sùng kính ấy đã có từ thời Giáo hội sơ khai, mà cao điểm là Công đồng Êphêsô với tước hiệu Mẹ Thiên Chúa (Theotokos) và từ đó, rất nhiều tước hiệu đã được xưng tụng về ngài. Kinh cầu Loretto, với 48 tước hiệu, là kết tinh của truyền thống sùng kính lâu đời kia. Mới đây, Jaroslav Pelikan, giáo sư thực thụ đại học Yale, còn tặng ngài tước hiệu mới: Ðấng Bắc Cầu (Pontifex) (Xem Mary Through The Centuries, Her Place in the History of Culture, Yale University Press, New Haven and London, 1996), trong đó cây cầu đáng bắc nhất hiện nay chính là cây cầu giữa thế giới Hồi giáo và thế giới Kitô giáo: Ðức Mẹ có mặt trong cả hai thế giới ấy. Ấy thế, nhưng đến thời Thệ Phản, dù vẫn tôn kính ngài, người ta tìm cách loại bỏ hầu như hết mọi tước hiệu của ngài, ngoại trừ tước hiệu Mẹ Chúa Giêsu. Giáo hội Công Giáo vẫn một lòng tôn kính ngài như trước. Nhiều người không nghĩ như thế, họ viện dẫn Công đồng Vatican II để biện bác rằng lòng sùng kính ấy nay đã khác rồi, nhất là tước hiệu Mẹ Giáo hội không còn thích hợp nữa, vì Ðức Mẹ cũng là một tín hữu, do đó cũng là một thành viên của Giáo hội, không thể là Mẹ Giáo hội được. Sự thật ra sao?

Công đồng Vatican II dành chương cuối cùng (Chương 8) trong hiến chế Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân) để nói về Ðức Maria, đây là hiến chế nói về Giáo Hội. Theo hồi ký của Ðức Denis E. Hurley, Tổng Giám Mục Durban, Nam Phi, một trong những tổng giám mục chủ lực của Công Ðồng từ lúc chuẩn bị đến ngày kết thúc, thì vấn đề đặt Ðức Mẹ ở chỗ nào trong các văn kiện của Công Ðồng đã được tranh luận gay gắt. Người thì cho rằng cần phải có một đề án riêng, bởi không có gì xúc phạm đến danh dự của ngài cho bằng chỉ nhắc đến ngài trong đề án nói về Giáo hội. Người khác lại cho rằng Ðức Maria không muốn điều gì khác hơn là được liên kết chặt chẽ với Giáo hội. Kết quả đầu phiếu cho thấy 1114 nghị phụ ủng hộ ý kiến sau, 1074 vị ủng hộ ý kiến đầu, hơn kém không đến 2% (xem Eyewitness To Vatican II, The Southern Cross, 2001, bài 6).

Như thế xem ra đề án này chắc chắn đã được sửa đổi thêm bớt rất nhiều trước khi đem ra biểu quyết để trở thành bản văn chính thức được công bố tại Ðền thờ Thánh Phêrô ngày 21 tháng Mười Một năm 1964. Trong bản văn chính thức này, tước hiệu Mẹ Giáo hội của Ðức Maria không được minh nhiên nhắc đến, như chính đức Gioan Phaolô nhận định trong bài Giáo lý nói ngày 17-09-1997. Nhưng ngài thêm: Không thể lầm lẫn được là văn bản này đã đề cập đến nội dung của tước hiệu ấy bằng cách lặp lại một tuyên bố của Ðức Bênêdictô XIV năm 1748, trong đó, vị tiền nhiệm đáng kính của Ta, khi miêu tả các tình cảm con thảo của Giáo hội, những tình cảm nhìn nhận đức Maria là mẹ thân yêu của mình, đã gián tiếp xưng tụng ngài là Mẹ Giáo hội (L’Osservatore Romano, Ấn bản Hàng tuần bằng Tiếng Anh, ngày 24-09-1997, tr.11). Khỏi nói cũng hiểu đối với đức Gioan Phaolô II, tước hiệu Mẹ Giáo hội của Ðức Maria là một điều hiển nhiên.

Trong bài giáo lý trên, đức Gioan Phaolô II cho hay: Tước hiệu này đúng ra ít được dùng trong quá khứ, nhưng gần đây đã trở thành quen thuộc hơn trong các công bố của Huấn quyền Giáo hội và trong lòng sùng kính của dân chúng Kitô giáo. Người tín hữu khởi đầu kêu cầu ngài với tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa”, “Mẹ giáo hữu” hay “Mẹ chúng con” để nhấn mạnh đến liên hệ bản thân của ngài với mỗi con cái của ngài. Sau này, vì sự quan tâm nhiều hơn đến mầu nhiệm Giáo hội và mối liên hệ giữa Ðức Mẹ với Giáo hội, Ðức Nữ Trinh càng ngày càng được kêu cầu với tuớc hiệu “Mẹ Giáo hội”. Trước Công đồng Vatican II, biểu thức này tìm thấy trong Huấn quyền của đức Lêô XIII, trong đó, ngài xác nhận đức Maria “quả thực là Mẹ Giáo Hội” (Acta Leonis XIII, 15,302). Tước hiệu này sau đó được đức Gioan XXIII và đức Phaolô VI sử dụng nhiều lần. Ðức Gioan Phaolô II cũng trích dẫn lại các biến cố Kinh Thánh như Truyền Tin, tiệc cưới Cana, đồi Calvary và cả sinh hoạt Hội Thánh sau khi Chúa về trời trong Tông đồ Công vụ (1:14) để minh chứng vai trò Mẹ Giáo Hội của Ðức Maria. Các giáo phụ cũng thế, tuy không minh nhiên gọi ngài là Mẹ Giáo hội, nhưng nhiều biểu thức cho thấy ngài quả là Mẹ Giáo hội. Thánh Irênê cho hay đức Maria “đã trở nên nguyên nhân cứu độ cho toàn thể nhân loại” (Haer. 3, 22,4; PG 7,959), và cung lòng tinh sạch của Trinh Nữ “tái sinh con người trong Thiên Chúa” (Haer.4, 33, 1; PG 7, 1080). Thánh Ambrôsiô cho hay “Một Trinh nữ đã hạ sinh ơn cứu độ cho thế gian, một Trinh nữ đã ban sự sống cho muôn loài” (Ep. 63,33; PL 16, 1198). Thời Trung cổ, thánh Anselmô thưa với Ðức Mẹ như thế này:”Mẹ là Mẹ của sự công chính hóa và của kẻ được công chính hóa, Mẹ của sự hoà giải và của kẻ được hoà giải, mẹ của sự cứu độ và của kẻ được cứu độ” (Or. 52,8; PL 158, 957).

Có người dám cho rằng Ðức Gioan Phaolô, từng bị coi là một Giáo hoàng bảo thủ, nên đâu có gì lạ khi ngài cố gắng đi ngược lại khuynh hướng canh tân trong Giáo hội, cụ thể đã được đúc kết qua hiến chế Lumen Gentium. Việc này ngoài tầm hiểu biết của một tín hữu tầm thường, chỉ biết lắng nghe lời huấn đức của vị đại diện Chúa Kitô. Nhưng vị giáo hoàng được Ðức Denis E. Hurley xếp vào phe cấp tiến (xem Bài 1, tài liệu đã dẫn) là đức Phaolô VI, người đã công bố hiến chế trên, đã chính thức và minh nhiên công bố tước hiệu Mẹ Giáo hội của Ðức Maria, cũng trong ngày công bố hiến chế này, tức ngày 21 tháng 11 năm 1964, trong buổi lễ kết thúc Công Ðồng tại Ðền thờ Thánh Phêrô, trước mặt toàn thể nghị phụ và các quan sát viên Chính Thống cũng như Tin Lành, Thệ Phản: rằng: “Ðức Maria là Mẹ Giáo hội, nghĩa là của toàn thể Dân Chúa, tín hữu cũng như mục tử”. Và ngài yêu cầu “từ nay Ðức Trinh Nữ Diễm Phúc phải được tôn kính và khẩn cầu với tước hiệu này bởi toàn thể dân Kitô giáo” (AAS, 1964, 37). Gần hai năm sau, ngày 15 tháng 9 năm 1966, để chuẩn bị cho tháng Mân Côi và kỷ niệm một năm ngài qua New York đọc diễn văn trước Ðại Hội Ðồng Liên Hiệp Quốc, Ðức Phaolô VI công bố tông thư Christi Matri (Mẹ Ðức Kitô) trong đó ngài có nhắc đến cuộc chiến đẫm máu đang xẩy ra tại Ðông Á (ám chỉ Việt-Nam) để thúc giục Dân Chúa khẩn cầu Ðức Mẹ cho hòa bình. Trong tông thư này, ngài nhấn mạnh: “Ta muốn những lời cầu liên tục và tha thiết được dâng lên cho Ðấng Ta đã công bố là Mẹ Giáo hội, người Mẹ thiêng liêng, trong lúc cử hành Công Ðồng Vatican II, qua đó đã được sự tán thưởng của các Nghị phụ và thế giới Công giáo, và xác nhận một điểm của học lý cổ truyền. Bởi vì Mẹ Chúa Cứu Thế, như Thánh Augustinô dạy ‘chắc chắn cũng là Mẹ các chi thể của Người’ và Thánh Anselmô cũng đồng ý bằng những lời sau ‘còn gì xứng hợp hơn khi Mẹ là Mẹ của những kẻ mà Chúa Kitô đã đoái thương trở thành cha và anh?’” (ASS, 1966, 745-749).

Như thế, Ðức Phaolô VI chỉ làm một việc là minh nhiên nói lên một học lý chứa đựng ngay trong Chương 8 của Lumen Gentium. Bây giờ, nếu đọc lại Chương ấy, ta cũng sẽ thấy không nghị phụ nào có mặt tại Ðền thờ Thánh Phêrô ngày 21 tháng 11 năm 1964 lại phản đối lời công bố của Ðức Phaolô VI, mặc dù phần kết luận của Chương này có minh nhiên khuyên các thần học gia và các nhà giảng thuyết hãy nhiệt tâm tự hạn chế đừng quá phóng đại cũng như giữ óc hẹp hòi nhỏ mọn trong việc xem sét phẩm giá độc đáo của Mẹ Thiên Chúa. Họ hãy dựa vào việc học hỏi Thánh kinh, các Giáo phụ thánh thiện, các tiến sĩ và phụng vụ của Giáo hội, cũng như tuân theo sự hướng dẫn của huấn quyền Giáo hội, mà minh họa đúng đắn các bổn phận và đặc ân của Ðức Trinh Nữ Diễm Phúc, Ðấng luôn luôn hướng lên Chúa Kitô, nguồn mọi chân lý, thánh thiện và đạo hạnh. Họ hãy chăm chú tránh xa bất cứ điều gì, hoặc lời nói hoặc việc làm, có thể dẫn anh em ly khai hay bất cứ người nào khác vào sai lầm liên quan đến học lý chân thực của Giáo hội (LG, 67). Ðiều này để nhấn mạnh rằng những gì khẳng định trong Chương này chỉ có thể dẫn anh em ly khai đến chân lý mà thôi. Vậy Chương này nói gì về Ðức Mẹ?

Ta thấy phần mở đầu nhắc đến việc do lòng từ nhân và khôn ngoan vô lường của Thiên Chúa muốn cứu vớt trần gian, Ðức Mẹ trở nên Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Ðấng Cứu Chuộc; đồng thời vì ngài là giòng giống Adam, nên ngài là một trong những kẻ cần được cứu chuộc, một phần tử của Giáo hội, nhưng là một phần tử siêu phàm và độc đáo, siêu phàm và độc đáo đến độ, Giáo hội Công giáo, được Chúa Thánh Thần dạy dỗ, tôn kính ngài bằng lòng âu yếm và tôn kính con thảo như bà mẹ dấu yêu nhất của mình (số 53). Sau đó bản văn cho hay Công đồng có ý định cần cù miêu tả cả vai trò của Ðức Mẹ trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể và Thân Thể Mầu Nhiệm, lẫn các bổn phận của nhân loại được cứu vớt đối với Mẹ Thiên Chúa, Ðấng là Mẹ Chúa Kitô và mẹ mọi người, nhất là mẹ các tín hữu. Tuy nhiên, Công đồng không có ý định đưa ra một học lý toàn diện về Ðức Maria, cũng không muốn quyết định những vấn nạn mà công trình của các thần học gia vẫn chưa soi sáng đầy đủ. Các ý kiến ấy vì vậy được phép duy trì như đang được trình bày tại các học đường Công giáo liên quan đến ngài, Ðấng dù giữ một vị thế cao nhất trong Giáo hội sau Chúa Kitô nhưng lại rất gần gũi với chúng ta (số 54).

Xem như thế, thì dù Ðức Mẹ là một phần tử của Giáo Hội, nhưng không phải là một phần tử tầm thường như anh và tôi hay như đức Phaolô VI hoặc đức Gioan Phaolô II. Người quả là Mẹ Giáo Hội. Mặt khác, học lý về Ðức Mẹ trong Hiến chế này không phải là học lý đầy đủ và không loại bỏ các điều đang được giảng dạy trong Giáo hội về ngài. Các Nghị phụ và quan sát viên Tin Lành tại Công Ðồng chắc chắn không đọc lướt qua phần mở đầu này, do đó không thể nào hiểu lầm về học lý chân thực của Giáo hội Công Giáo được. Chỉ sợ mấy ông Công giáo cấp tiến thời nay cố tình muốn làm vui lòng anh em Tin Lành nên vờ luôn không đọc kỹ nó. Thực ra đại kết không có nghĩa là phải thay đổi bản sắc mình, mà điều cần là làm sáng ra cái bản sắc ấy, làm cho anh em biết rõ bản sắc chân thực của mình trong tình bác ái lẫn nhau. Chính vì thế, Lumen Gentium chẳng ngần ngại gì khi phải nhắc lại những tín điều thật khó nhá đối với anh em Tin Lành: Mẹ Thiên Chúa, Vô Nhiễm Nguyên Tội, Hồn Xác Lên Trời, nhất là tước hiệu Ðấng Trung Gian (mediatrix). Anh em Tin Lành và cả chúng ta nữa tin rằng chỉ có một Ðấng trung gian là Ðức Giêsu Kitô, như lời Thánh Phaolô quả quyết. Nhưng khi Giáo hội xưng tụng Ðức Maria là Ðấng trung gian, thì điều này không có chi mâu thuẫn cả. Bởi vì sự trung gian của Ðức Mẹ hoàn toàn phát xuất từ sự trung gian của Ðức Kitô, từ sự dư tràn công phúc của Ðức Kitô, tùy thuộc hoàn toàn vào sự trung gian này và rút tỉa mọi quyền lực từ trung gian ấy mà ra. Cho nên sự trung gian của Ðức Mẹ không cản trở, trái lại còn thúc đẩy tín hữu trực tiếp kết hiệp với Chúa Kitô (số 60). Ðức Mẹ là Ðấng Trung Gian, vì qua đức vâng lời, qua đức tin, đức cậy và đức ái bừng cháy, ngài hợp tác vào công Trình của Ðấng Cứu Thế trong việc đem lại sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Chính vì thế, ngài là Mẹ chúng ta trên bình diện ơn thánh (số 61). Công đồng ví sự trung gian này như chức linh mục của Ðức Kitô, một chức linh mục được chia sẻ nhiều cách bởi cả các thừa tác viên lẫn các tín hữu, và cũng như sự tốt lành duy nhất của Thiên Chúa được thực sự thông ban cho các thụ tạo cách khác nhau thế nào, thì sự trung gian duy nhất của Ðấng Cứu Chuộc cũng không loại bỏ, trái lại làm phát sinh ra nhiều sự hợp tác khác vốn chỉ là sẻ chia từ cùng một nguồn gốc (số 62).

Xét cho cùng mọi vinh dự, mọi tước hiệu của Ðức Mẹ đều do Chúa Kitô mà có. Ðặt ra ngoài nhiệm cục cứu độ, Ðức Mẹ chẳng là gì cả. Chính Ðức Mẹ hiểu hơn ai hết điều đó, ngài coi mình luôn là Nữ tì của Chúa. Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo, ấn hành chung cho toàn thế Giáo hội vào năm 1992, dành đến hai chương nói về Ðức Mẹ: chương đầu gồm các số 487-507 trong phần nói về Mầu Nhiệm Nhập Thể; chương sau tựa là Maria- Mẹ Chúa Kitô, Mẹ Giáo hội gồm các số 963-972 trong phần nói đến Hiệp Thông Các Thánh. Ðiều đáng lưu ý, khi viết về Ðức Mẹ, Sách đã bắt đầu bằng những giòng này: những điều đức tin Công giáo tin về Ðức Maria đều dựa trên những điều mình tin về Ðức Kitô, và những điều Giáo hội dạy về Ðức Maria đều ngược lại sẽ làm sáng lên đức tin của mình vào Chúa Kitô (số 487). Thiển nghĩ không tín điều nào về Ðức Mẹ mạnh bạo bằng tín điều Mẹ Thiên Chúa: một thụ tạo mà lại được xưng tụng là Mẹ Thiên Chúa Hóa Công! Nhưng tín điều này rõ ràng không làm lu mờ các tín điều về Thiên Chúa Ba Ngôi, mà làm sáng lên các tín điều ấy. Bởi không có nó, đức Kitô thật khó mà hình dung vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật và hai bản tính ấy chỉ là một ngôi vị, một tín điều từng gây nên không biết bao bè rối và là đầu đề cho những tranh luận trong nhiều thế kỷ, mà cho đến nay vẫn còn nhiều Kitô hữu mù mờ không dứt khoát. Nếu hai bản tính ấy chỉ là một ngôi vị, thì đức Maria, một thụ tạo, người thực sự là mẹ đấng Cứu Thế, phải là Theotokos, hay Ðấng Cưu Mang Ðấng Là Thiên Chúa, gọi tắt là Mẹ Thiên Chúa. Nếu chỉ xét riêng về Maria trong tư cách thụ tạo, bên ngoài tín điều về đức Kitô, hỏi có ai dám tung hô ngài là Mẹ Thiên Chúa không? Cũng thế, nếu nhìn Ðức Mẹ như người cần được cứu độ thì ngài quả là một trong các thành phần của Giáo hội, nhưng nếu nhìn ngài như Mẹ Ðấng Cứu Ðộ, mà Ðấng Cứu Ðộ, theo định nghĩa của Thánh Phaolô, là Ðầu Nhiệm Thể tức Ðầu Giáo hội, thì rõ ràng Ðức Mẹ là Mẹ của cái Ðầu ấy và do đó là Mẹ của cả Nhiệm Thể. Có ai có thể nghĩ rằng Ðức Mẹ không phải là Mẹ của Ðầu Nhiệm Thể không?

Nói tóm lại, nói về Ðức Mẹ thì không bao giờ đủ, hay đúng hơn không bao giờ cùng. Mà nói lắm thì sẽ sinh ra rối đạo. Bởi lẽ Ðạo Công giáo là Ðạo không phải chỉ của lý trí. Suy luận các tín điều bằng lý trí mà thôi không đủ. Chúng ta có những mầu nhiệm. Mà một trong những Mầu Nhiệm cao cả nhất trong Ðạo là Mầu Nhiệm Nhập Thể. Nhìn dưới ánh sáng Mầu Nhiệm ấy, mọi điều chúng ta tin về Ðức Mẹ đều có ý nghĩa cả. Bên ngoài Mầu Nhiệm ấy, không một điều gì chúng ta tin về Ðức Mẹ có nghĩa hết.
Nguồn:  http://www.vietcatholic.net/News/Html/101428.htm