Trang chủ

Sonntag, Januar 27, 2013

ĐTC: Sống ngày ''hôm nay'' trong Chúa


Nguyễn Minh Triệu sj   1/27/2013

VATICAN. Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin với các tín hữu trưa Chúa nhật 27-01-2013, ĐTC mời gọi các tín hữu hãy đón nhận Ơn cứu độ và sự hiện diện của Thiên Chúa trong ngày sống của mình bằng cách lắng nghe lời của Ngài.

Trong một ngày nắng đẹp, hàng chục ngàn tín hữu hành hương quần tụ tại Quảng trường Thánh Phêrô để nghe lời giáo huấn của Đức Thánh Cha. Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, ngài đã giải thích ý nghĩa của đoạn Tin Mừng theo Thánh Luca(Lc 1,1-4; 4,14-21) và nhắn nhủ các tín hữu hãy sống ngày hôm nay như là ngày hồng ân cứu độ. Giải thích về ý nghĩa của đoạn Tin Mừng, Đức Thánh Cha nói rằng:

Phụng vụ hôm nay trình bày cho chúng ta hai đoạn trích khác nhau trong Tin Mừng theo thánh Luca. Đoạn thứ nhất là lời tựa, là một lời nhắn nhủ tới một con người cụ thể có tên là “Thêôphilô”; vì tên này trong tiếng Hy-lạp có nghĩa là Yêu mến Thiên Chúa, nên chúng ta có thể nhận ra nơi ông hình ảnh của những người tín hữu biết mở ra với Thiên Chúa và khao khao hiểu biết về Tin Mừng. Trong khi đó, đoạn thứ hai trình bày cho chúng ta sự kiện Đức Giê-su, “được quyền năng Thần Khí thúc đẩy”, đi vào hội đường Na-da-rét. Nhìn kỹ ta thấy rằng Thiên Chúa đã không xem thường những nghi lễ phụng vụ hàng tuần và Ngài vẫn thường quây quần bên những người đồng hương để cầu nguyện và lắng nghe Kinh Thánh. Nghi thức này bao gồm việc đọc một đoạn văn trong Kinh Torah hay Ngôn sứ và sau đó là một vài diễn giải. Vào ngày này, Đức Giê-su đã đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaia. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: “Thần khí của Ðức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân,

công bố một năm hồng ân của Ðức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta; Người sai tôi đi yên ủi mọi kẻ khóc than” (Is 61, 1-2). Origen diễn giải rằng: “Không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên khi Ngài mở sách và tìm thấy đoạn ngôn sứ Isaia nói về Ngài, nhưng đây chính là hành động quan phòng của Thiên Chúa”. Sau khi đọc xong đoạn Sách Thánh, Đức Giê-su đã thinh lặng, rồi Ngài nói: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe" (Lc 4,21). Thánh Cirillo Alessandria xác nhận rằng, “hôm nay” được đặt giữa lần đến đầu tiên và cuối cùng của Đức Giê-su, được nối kết với khả năng của người tín hữu trong việc lắng nghe và hoán cải. Nhưng trong ý nghĩa cụ thể hơn, Đức Giê-su chính là “hôm nay” trong lịch sử cứu độ, bởi vì ng”ài đã đến và hoàn tất công trình cứu độ. Thuật ngữ “hôm nay” có ý nghĩa rất phong phú trong Tin Mừng thánh Luca, nó gợi nhắc cho chúng ta chủ đề Kitô học rất được ưa thích bởi Thánh sử Luca. Trong tường thuật về việc sinh hạ, chủ đề này đã được trình bày trong lời của các Thiên Thần: “Hôm nay, một Ðấng Cứu Ðộ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Ðavít, Người là Ðấng Kitô Ðức Chúa” (Lc 2,11).

Sau khi diễn giải bài Tin Mừng, Đức Thánh Cha nhắn nhủ các tín hữu phải sống cụ thể ngày “hôm nay” trong đời sống thường ngày. Ngài nói:

Anh chị em thân mến,

Đoạn Tin Mừng này đòi chúng ta phải chất vấn về chính ngày “hôm nay” của chúng ta. Trên hết chúng ta phải nghĩ về cách chúng ta sống ngày Chúa Nhật: ngày để nghỉ ngơi, ngày của gia đình, và trên hết là ngày dành cho Chúa, bằng cách tham dự Thánh Lễ, nơi đó chúng ta được nuôi dưỡng bởi Mình và Máu Thánh Chúa Kitô và Lời sự sống của Ngài. Thứ đến, trong thời đại đầy xáo trộn và đổi thay này, bài Tin Mừng hôm nay cũng mời gọi chúng ta chất vấn chính mình về khả năng lắng nghe của chúng ta. Trước khi có thể nói về Thiên Chúa và nói với Thiên Chúa, chúng ta cần lắng nghe Ngài, và phụng vụ của Giáo Hội chính là “trường học” lắng nghe Thiên Chúa, Đấng luôn nói với chúng ta. Cuối cùng, bài Tin Mừng cũng nói cho chúng ta rằng mọi khoảnh khắc đều có thể trở thành hôm nay để chúng ta có thể hoán cải. Mỗi ngày có thể trở thành ngày cứu độ, bởi vì ơn cứu độ là một lịch sử được tiếp nối bởi Giáo Hội và bởi mỗi một người môn đệ của Đức Giê-su. Đây chính là ý nghĩa Kitô giáo của thuật ngữ “Hãy sống với ngày hôm nay" (carpe diem), hãy nắm bắt khoảnh khắc Thiên Chúa kêu gọi bạn để trao ban ơn cứu độ.

Đức Trinh Nữ Maria chính là mẫu gương cho chúng ta và là Đấng hướng dẫn chúng ta trong việc mở ra để đón nhận mỗi ngày trong đời sống chúng ta sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng cứu độ của chúng ta và của tất cả nhân loại.

Tiếp đến Đức Thánh Cha nhắn nhủ một cách đặc biệt vì hôm nay cũng là ngày tưởng niệm các nạn nhân của thảm họa diệt chủng Phát-xít. Ngài nói:

Hôm nay cũng là “Ngày tưởng niệm” những nạn nhân của Holocaust của Phátxít. Việc kỷ niệm thảm họa kinh hoàng này phải là một lời nhắc nhở dành cho mọi người rằng, chúng ta không nên lặp lại những lỗi lầm trong quá khứ. Và chúng ta phải nỗ lực để vượt qua mọi thái độ ghen ghét và các hình thức phân biệt chủng tộc, đồng thời phải thăng tiến và tôn trọng phẩm giá con người.

Sau Angelus, Đức Thánh Cha nhắc nhở rằng hôm nay cũng là ngày Thế Giới bệnh nhân. Ngài nhắn nhủ tới mọi người như sau:

Tôi muốn diễn tả sự gần gữi của tôi tới những người phải chịu đau khổ vì bệnh tật, những nhà nghiên cứu đầy can đảm, các nhà thiện nguyện, những người hoạt động trong lĩnh vực y tế và cụ thể là biết bao nhiêu người đang tham gia vào các tổ chức Công giáo và Tổ chức những người bạn của Raoul Follereau. Tôi cũng nguyện xin Thánh Damien de Veuster và thánh Marianna Cope, những người đã hiến trao đời mình cho những người phải chịu đau khổ vì bệnh phong, xin các ngài cầu bầu cho tất cả các bạn.

Đức Thánh Cha nhắc nhở rằng, Chúa nhật hôm nay là ngày đặc biệt cầu nguyện cho hòa bình trên Đất Thánh. Và Ngài cảm ơn tất cả những ai đang nỗ lực để thăng tiếng hòa bình trên mọi miền của thế giới và ngài đặc biệt chúc mừng những người hiên diện nơi đây. Sau đó, Ngài cũng chào mừng khách hành hương bằng các thứ tiếng khác nhau: tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức, Phần Lan và Tây Ban Nha. Và cuối cùng, Đức Thánh Cha ban phép lành tòa thánh cho toàn thể mọi người hiện diện.

Freitag, Januar 25, 2013

Tóm Lược Hiến Chế Tín Lý về Hội Thánh Lumen Gentium


Phaolô Phạm Xuân Khôi    1/24/2013

Tìm Hiểu Công Đồng Vaticanô II - Bài 2

Lumen gentium là một trong bốn hiến chế nền tảng của Công Đồng Vaticanô II. Muốn hiểu những văn kiện của Công Đồng, người ta trước hết phải hiểu hiến chế này. Lumen gentium có thể được chia thành hai phần. Phần thứ nhất gồm các chương 1 đến 4, trình bày bản chất của Hội Thánh Công Giáo, Duy Nhất và Tông Truyền. Phần thứ nhì gồm các chương 5 đến 8 trình bày những bình diện khác nhau của bình diện Thánh Thiện của Hội Thánh. Trong bài này chúng tôi cố gắng tóm lược trong 4 trang những điểm chính yếu của Lumen gentium nhằm giúp độc giả có một cái nhìn tổng quát về giáo huấn cơ bản của Công Đồng trong Hiến Chế Tín Lý về Hội Thánh, vì nó là chìa khóa để hiểu những văn kiện khác của Công Đồng.

1. Hội Thánh là Mầu Nhiệm Hiệp Thông

Lumen Gentium mở đầu với lời tuyên xưng rằng Đức Kitô là ánh sáng muôn dân (Lumen gentium). Vì mối liên hệ đặc biệt của mình với Đức Kitô, Hội Thánh là bí tích hay dấu chỉ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và sự hiệp nhất vời toàn thể nhân loại. Như thế Hội Thánh cũng là một mầu nhiệm. Hội thánh là thân thể hữu hình của Mầu Nhiệm Nhập Thể của Đức Kitô, Chúa Con, được Chúa Cha sai đến để khai trương Nước Trời trên trần gian, những cá nhân là những phần tử của Hội Thánh kết hợp với nhau thành nhiệm thể Đức Kitô. Nhiệm thể này là đại diện hữu hình của sự tốt lành của Thiên Chúa vô hình. Hiến chế giải thích rằng “Mầu nhiệm của Hội Thánh thánh thiện đã được đưa ra ánh sáng theo cách nó được thành lập, vì Chúa Giêsu đã khai trương Hội Thánh của Người bằng cách rao giảng Tin Mừng, nghĩa là, việc trị đến của Nước Thiên Chúa, là điều đã được Thiên Chúa hứa trong Thánh Kinh qua nhiều kỷ nguyên.”

Công việc mà Chúa Cha đã trao cho Chúa Con thi hành trên thế gian đã hoàn thành, và Chúa Thánh Thần được sai đến để tiếp tục thánh hóa Hội Thánh. Những ai tin có thể đến cùng Chúa Cha qua Đức Kitô trong Chúa Thánh Thần. Đối với Hội Thánh và mỗi tín hữu, Chúa Thánh Thần là nguyên tắc của sự kết hợp và hợp nhất của họ trong giáo huấn của các Tông Đồ và sự thông công cùng nhau trong việc bẻ bánh và cầu nguyện. Chúa Thánh Thần ở trong Hội Thánh và trong tâm hồn các tín hữu. Ngài hướng dẫn Hội Thánh đến toàn thể Chân Lý. Nhờ quyền năng của Tin Mừng, Chúa Thánh Thần làm cho Hội Thánh phát triển, liên tục canh tân và dẫn Hội Thánh đến kết hợp trọn vẹn với Đức Kitô. Như thế Hội Thánh sáng ngời như một dân duy nhất trong sự hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi.

Sau khi chết và sống lại, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ và đổ trên họ Chúa Thánh Thần mà Chúa Cha đã hứa. Từ đó trở đi Hội Thánh được Đấng sáng lập ban cho nhiều hồng ân và đã trung thành tuân giữ những giới luật của Người về bác ái, khiêm nhường và từ bỏ mình, cùng “nhận sứ vụ rao giảng và thiết lập giữa muôn dân vương quốc của Đức Kitô và của Thiên Chúa. Hội Thánh là hạt giống và khởi đầu của vương quốc ấy nơi trần gian. Trong khi từ từ đi đến trưởng thành, Hội Thánh mong chờ ngày Nước Thiên Chúa được hoàn thành. Với tất cả sức lực của mình, Hội Thánh hy vọng và mong ước được kết hợp với Vua của mình trong vinh quang.

Theo Lumen Gentium thì Đức Kitô là trung tâm của giáo huấn về Hội Thánh. Qua việc truyền thông Thần Khí của Người, Đức Kitô kết hợp những anh em mà Người mời gọi từ mọi dân tộc lại thành nhiệm thể của Người. Là chi thể của nhiệm thể của Người, các tín hữu sống trong Đức Kitô, được gọi qua Bí Tích Rửa Tội thành một Tinh Thần duy nhất. Thực sự được thông phần vào Mình Máu Chúa trong bí tích Thánh Thể, chúng ta được đưa vào hiệp thông với Chúa và với nhau, được kết hợp thành một nhiệm thể duy nhất của Đức Kitô. Để xây dựng nhiệm thể này, các chi thể có những chức năng khác nhau.

Hội Thánh nhìn nhận Đức Kitô là Đầu của thân thể cùng là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” và trong Người mọi sự được tạo thành. Mọi phần tử của Hội Thánh phải được đúc theo hình ảnh của Người, cho đến khi Đức Kitô được hình thành nơi họ (x. Gl 4:19).

Trở nên mẫu gương của một người chồng yêu thương vợ mình như chính mình, Đức Kitô yêu thương Hội Thánh như hiền thê của Người, và Hội Thánh nhìn nhận mối liên hệ của mình với Đức Kitô. Đấng trung gian, Đức Kitô, đã thành lập và không ngừng duy trì Hội Thánh thánh thiện của Người dưới thế, là cộng đồng đức tin, đức cậy, và đức mến, như một tổ chức hữu hình, hay một bí tích, mà qua đó Người truyền đạt chân lý và ân sủng cho mọi người. Sau khi phục sinh, Đức Kitô đã trao Hội Thánh này cho Thánh Phêrô cai quản. Như Đức Kitô thi hành công trình cứu độ của Người trong nghèo khó và áp bức, Hội Thánh cũng được mời gọi đi theo cùng một con đường trong khi truyền thông cho nhân loại hoa quả của ơn cứu độ. Hội Thánh không tìm vinh quang thế trần, nhưng rao giảng sự khiêm nhường và tự hiến bằng chính gương sáng của mình.

2. Hội Thánh là Dân Thiên Chúa

Thiên Chúa không muốn cứu độ và thánh hóa con người như những cá nhân không có sự liên hệ gì với nhau, nhưng biến họ thành một dân có thể nhận biết Ngài và phục vụ Ngài trong sự thánh thiện. Thiên Chúa đã thiết lập một giao ước với dân Israel, và Đức Kitô đã thiết lập một Giao Ước Mới với Hội Thánh, một Giao Ước được đóng ấn bằng chính máu Người. Người triệu tập một chủng tộc mới bao gồm cả người Do Thái lẫn Dân Ngoại và họ sẽ nên một, không theo xác thịt, nhưng trong Thần Khí. Chủng tộc mới này là “dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa” (1 Ph 2:9-10). Vì là hàng “tư tế vương giả” nên mọi tín hữu đều được thừa hưởng chức tư tế của Đức Kitô. Lumen Gentium dùng thuật ngữ “chức tư tế cộng đồng của các tín hữu” để phân biệt chức tư tế thừa tác của các giám mục và linh mục. Mọi tín hữu đều là tư tế cộng đồng, trong khi chỉ có những người được thánh hiến bởi Bí Tích Truyền Chức Thánh mới là những tư tế thừa tác. Chức tư tế công đồng cũng được gọi là “chức tư tế vương giả”, một thuật ngữ được sử dụng khi các tín hữu tham gia vào việc dâng của lễ trong bí tích Thánh Thể. Họ thi hành chức tư tế ấy qua việc lãnh nhận các bí tích, cầu nguyện, tạ ơn, và làm nhân chứng bằng đời sống thánh thiện, từ bỏ mình và tích cực trong việc bác ái. Ngoài ra tất cả các phần tử của Hội Thánh cũng được chia sẻ sứ vụ Ngôn Sứ và Vương Giả của Đức Kitô qua việc rao giảng và làm chứng Tin Mừng cùng phục vụ tha nhân.

Vấn đề người ta có thể được cứu độ bên ngoài Hội Thánh hay không cũng được trình bày trong văn kiện này. Trước hết, Công Đồng khẳng định rằng Hội Thánh cần thiết cho ơn cứu độ, cho nên những ai biết rằng Hội Thánh cần thiết cho ơn cứu độ mà không chịu gia nhập hay không tiếp tục ở lại trong Hội Thánh thì không được cứu độ. Còn những ai không phải do lỗi của riêng mình, không biết Tin Mừng của Đức Kitô hay Hội Thánh của Người, nhưng vẫn tìm kiếm Thiên Chúa với một lòng chân thành, và được ân sủng tác động, cố gắng làm theo Thánh Ý Thiên Chúa mà họ biết qua tiếng nói của lương tâm, những người ấy cũng có thể được cứu độ. Lumen gentium cũng nhìn nhận rằng Hội Thánh liên hệ với những người đã được rửa tội, và nhìn nhận họ là Kitô hữu, mặc dù họ không hoàn toàn hiệp thông với Hội Thánh và Đấng Kế Vị Thánh Phêrô.

3. Phẩm Trật Hội Thánh

Chương 3 của Lumen gentium bàn về phẩm trật trong Hội Thánh, một cấu trúc bắt nguồn từ Chính Chúa Giêsu khi Người tuyển chọn mười hai Tông Đồ mà Người gọi đích danh và đặt làm những người lãnh đạo. Chúa còn tuyển chọn những môn đệ tụ tập chung quanh các Tông Đồ. Tân Ước chứng tỏ rằng có những cấp bậc môn đệ khác nhau. Lumen Gentium giải thích phẩm trật này của Hội Thánh được truyền lại như thế nào qua các các Tông Đồ, là những vị đã được Đức Kitô đặc biệt ban Thánh Thần. Qua việc đặt tay của mình, các ngài đã truyền lại cho những người trợ giúp các ngài ơn Chúa Thánh Thần, là điều được truyền lại cho đến thời đại chúng ta qua việc truyền chức giám mục và linh mục. Hơn nữa, tài liệu nói rất rõ rằng qua việc đặt tay và qua những lời truyền phép, ân sủng của Chúa Thánh Thần được ban cho, và một ấn tích thánh được in trên các vị, đến nỗi các giám mục và linh mục, một cách hữu hình, thay thế chính Đức Kitô để là thầy dạy, mục tử, cùng hành động như những đại diện của Người.

Khi nói về mối liên hệ giữa các giám mục và Đức Giáo Hoàng, Lumen gentium nói rằng “Chức vụ của các giám mục như những người kế vị Tông Đồ Đoàn trong vai trò là thầy dạy và mục tử, và trong đó Tông Đồ Đoàn được tồn tại. Cùng với đầu của họ, là Đức Thánh Cha, và không bao giờ tách khỏi ngài, các giám mục có quyền tối cao và đầy đủ trên Hội Thánh hoàn vũ; nhưng quyền này không thể được thực thi mà không có sự ưng thuận của Đức Giáo Hoàng.” Sau đó tài liệu giải thích thêm về mối liên hệ giữa các giám mục và Đức Giáo Hoàng. “Cá nhân các giám mục là nguồn mạch hữu hình và nền tảng của sự hiệp nhất trong Hội Thánh địa phương của họ, là những Hội Thánh được thành lập theo mô hình của Hội Thánh hoàn vũ; chính trong những Hội Thánh này và hình thành từ chúng mà có Hội Thánh Công Giáo duy nhất. Và chính vì lý do đó mà mỗi giám mục đại diện cho Hội Thánh riêng của mình, trong khi tất cả các gám mục, cùng với Đức Giáo Hoàng, đại diện cho toàn thể Hội Thánh trong mối dây hòa bình, yêu thương và sự hợp nhất.”

Các linh mục, trong mối liên hệ với các giám mục đã được mô tả như “những cộng sự viên và cơ quan ngôn luận cùng hỗ trợ của Giám Mục Đoàn, được mời gọi để phục vụ dân Thiên Chúa.” Các linh mục cùng với giám mục của mình, tạo thành một “linh mục đoàn duy nhất” tận tâm với những nhiệm vụ khác nhau. “Trong mỗi cuộc tụ tập địa phương của các tín hữu, theo một nghĩa nào đó, họ đại diện giám mục, mà với ngài họ liên quan trong tất cả niềm tin và sự đại lượng”.

Các phó tế, ở mức độ thấp hơn của phẩm trật, nhận được việc đặt tay “không phải cho chức linh mục, nhưng cho việc phục vụ.” Chức phó tế vĩnh viễn được Công Đồng Vatican II phục hồi, và Lumen gentium trình bày các nhiệm vụ liên quan đến chức vụ này. Phó tế có thể ban bí tích rửa tội trọng thể, họ có thể giám sát và cho rước Mình Thánh, họ có thể, nhân danh Hội Thánh, giúp đỡ và chúc lành các cuộc hôn nhân, họ có thể mang của ăn đàng cho người lâm tử, họ có thể đọc Thánh Kinh cho các tín hữu , hướng dẫn và khuyên nhủ dân chúng, và chủ tọa những buổi phụng tự và lời nguyện giáo dân, và họ có thể ban các á bí tích và cử hành tang lễ và mai táng.

4. Giáo Dân

Ơn gọi của giáo dân được nói đến trong Chương 4 của Lumen gentium. Vì có một một tài liệu riêng của Công Đồng về chủ đề này là Sắc Lệnh Tông Đồ Giáo Dân, nên chúng tôi sẽ trình bày ơn gọi này cách vắn tắt ở đây. Trước hết giáo dân là những người đã được rửa tội nhưng không có chức thánh hoặc sống đời thánh hiến như các tu sĩ. Qua bí tích rửa tội, giáo dân hợp thành dân Thiên Chúa và được thiết lập trong Nhiệm Thể Đức Kitô như những chi thể. Giáo dân, bất kể là ai, như những chi thể sống động, được mời gọi xây dựng Hội Thánh và để thánh hóa liên tục tất cả các khả năng mà họ đã nhận được từ lòng nhân lành của Đấng Tạo Hóa và từ ân sủng của Đấng Cứu Thế .... Việc tông đồ của giáo dân là sự chia sẻ trong sứ vụ cứu độ của Hội Thánh.... Tuy nhiên, giáo dân được ơn gọi đặc biệt này là làm cho Hội Thánh hiện diện và hiệu quả ở những nơi và hoàn cảnh mà chỉ qua họ Hội Thánh mới có thể trở thành muối đất, đó chính là môi trường sống hằng ngày của họ giữa lòng thế gian. Giáo dân được mời gọi dâng lên Chúa những lao công và vui buồn sướng khổ thường nhật của họ hiệp cùng với Hy Lễ của Đức Kitô như những của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa. Họ được mời gọi làm nhân chứng cho Đức Kitô và đem Tin Mừng vào thế gian để sinh động hóa trật tự trần thế.

5. Lời Mời Gọi Nên Thánh Phổ Quát

Lumen Gentium đưa ra một “lời mời gọi nên thánh phổ quát.” Hiến chế nói rẳng trong Hội Thánh mọi người đều được mời gọi đến sự thánh thiện của Đức Kitô, Đấng được ca ngợi là “Đấng Thánh”, Đấng yêu thương Hội Thánh như Hiền Thê uốn mình theo hình ảnh Đức Kitô, tìm Thánh Ý Chúa Cha trong mọi sự. Những cặp vợ chồng và cha mẹ… qua tình yêu chung thủy và nâng đỡ nhau cả cuộc đời, cùng thấm nhuần con cái bằng chân lý và nhân đức Kitô giáo. Những người lao động … phải cố gắng nâng xã hội và tạo vật lên một cách sống mới qua công việc hằng ngày họ có thể đạt được tình trạng thánh thiện tông đồ. Những người bị đè bẹp bởi nghèo khổ, bệnh tật và những khó khăn khác có thể biết rằng họ được kết hợp với sự đau khổ của Đức Kitô để cứu độ thế gian.

6. Các Tu Sĩ

Hội Thánh luôn tôn trọng và đề cao những người theo đuổi những lời khuyên Phúc Âm hiến thân trong đời sống tu trì. Lumen gentium viết rằng “Mẹ Hội Thánh vui mừng rằng có trong mình rất nhiều những người nam nữ người theo đuổi việc từ bỏ mình của Chúa Cứu Thế cách gần gũi hơn và bày tỏ một cách rõ ràng hơn, bằng cam kết sống sống khó nghèo với sự tự do của con cái Thiên Chúa, và từ bỏ ý riêng mình: họ chịu phục tùng con người vì tình yêu Thiên Chúa, do đó họ vượt quá phạm vi những gì là giới luật trong việc hoàn thiện, ngõ hầu làm cho mình trở nên giống sự vâng phục của Đức Kitô cách trọn vẹn hơn.”

7. Bản Chất Cánh Chung của Hội Thánh Lữ Hành và Sự Kết Hợp với Hội Thánh trên Trời

Trong khi suy niệm về tính mầu nhiệm và bí tích của Hội Thánh hiện diện giữa chúng ta và trong vinh quang vĩnh hằng, chúng ta không thấy hai Hội Thánh, nhưng một Hội Thánh duy nhất đang lữ hành và ở trên trời trong vinh quang. Hội Thánh lữ hành chỉ đạt được sự hoàn thiện trọn vẹn trong vinh quang Thiên Quốc. Hợp cùng Đức Kitô trong Hội Thánh và được đánh dấu bằng Chúa Thánh Thần là “bảo chứng cho phần gia nghiệp của chúng ta” (Eph 1:4). Chúng ta thực sự được gọi là con cái Thiên Chúa, nhưng chúng ta chưa xuất hiện cùng Đức Kitô trong vinh quang. Một tình yêu chung thúc đẩy chúng ta sống nhiều hơn cho Người, là Đấng chết và sống lại vì chúng ta. Vì chúng ta không biết ngày giờ Chúa trở lại nên chúng ta phải luôn sẵn sàng trong niềm hy vọng được kết hợp với Người trên Thiên Quốc. Niềm hy vọng này giúp chúng ta hiệp thông sâu xa với tất cả những ai sống trong ân sủng của Chúa, là những người vẫn còn ở nơi dương thế, những người trong Luyện Ngục và những người trên Thiên Đàng. Hội Thánh khuyến khích chúng ta sùng kính các Thánh vì các ngài thông phần vào Hội Thánh lữ hành qua việc chuyển cầu, làm mẫu gương nên thánh cùng chia sẻ trên Thiên Quốc Phụng Vụ Thánh của chúng ta dưới thế. Công Đồng cũng khuyến khích tín hữu cầu nguyện cho những người quá cố.

8. Vai Trò của Đức Mẹ trong Mầu Nhiệm của Đức Kitô và Hội Thánh

Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, giữ một vai trò đặc biệt và cao quý trong Hội Thánh, nhưng Lumen gentium kêu gọi các tín hữu tôn Mẹ trong nội dung giáo lý chân chính và những giáo huấn của Hội Thánh liên quan đến Mẹ. Lumen gentium nói rằng trong công trình cứu độ, Đức Mẹ đóng vai trò Mẹ Đấng Cứu Thế. Mẹ nổi bật trong những số người nghèo khổ và khiêm hạ của Chúa, là những người tin tưởng mong chờ ơn cứu độ của Người. Mẹ không hợp tác với Thiên Chúa một cách thụ động nhưng qua đức tin và việc tự nguyện vâng phục.

Tuy chỉ có một mình Đức Kitô là Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, nhưng vì là Mẹ Đức Kitô thì cũng là Mẹ Hội Thánh là nhiệm thể Người. Mẹ cũng có nhiệm vụ chăm sóc và bầu cử cho chúng ta qua Đức Kitô. Mẹ kết hợp với Đức Kitô thế nào thì cũng kết hợp với Hội Thánh như thế. Hơn nữa, Mẹ là mẫu gương cho Hội Thánh và các tín hữu. Các môn đệ Đức Kitô đang cố gắng nên thánh phải nhìn lên Đức Mẹ như mẫu gương nhân đức, suy niệm về Mẹ trong ánh sáng của mầu nhiệm Nhập Thể và noi gương Mẹ.

Lumen gentium khuyên nhủ các tín rằng những hình thức khác nhau trong việc sùng kính Mẹ Thiên Chúa mà Hội Thánh đã phê chuẩn trong phạm vi giáo lý chắc chắn và chính thống đảm bảo rằng trong khi Mẹ được tôn vinh, thì Chúa Con, mà nhờ Người mọi sự được tạo thành và trong Người mà Chúa Cha được đẹp lòng cùng tất cả sự viên mãn cư ngụ, cũng phải được biết đến, yêu mến và tôn vinh, và giới răn của Người được tuân giữ. Trong khi cảnh báo các tín hữu về việc sùng kính Đức Mẹ, Lumen gentium cũng khuyến khích các giáo sĩ cổ võ lòng sùng kính Mẹ, giữ lại những sắc lệnh đã được đưa ra trước đây về việc tôn kính hình ảnh Đức Kitô, Đức Mẹ và các Thánh, và cũng yêu cầu tránh những hình thức sùng kính thái quá.
Nguồn:  http://www.vietcatholic.net/News/Html/102325.htm

Montag, Januar 21, 2013

Bài Giáo Lý của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin: Học để Thấy Thánh Nhan Thiên Chúa

Phaolô Phạm Xuân Khôi    1/20/2013


“Thánh Thể là trường học tuyệt vời, trong đó chúng ta học để thấy Thánh Nhan Thiên Chúa, chúng ta đi vào một mối liên hệ mật thiết với Ngài.”

Dưới đây là bản dịch Bài Giáo Lý thứ mười ba của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin, được ban hành tại Sảnh Đường Phaolô VI hôm thứ tư ngày 16 tháng 1, 2013. Hôm nay ĐTC tiếp tục loạt Bài Giáo Lý về Đức Tin.

* * *


Anh chị em thân mến,

Công đồng Vaticanô II, trong Hiến Chế về Mặc Khải của Thiên Chúa, Dei Verbum, quả quyết rằng chân lý thâm sâu của mặc khải của Thiên Chúa soi sáng cho chúng ta “trong Đức Kitô, Đấng vừa là trung gian vừa là sự viên mãn của tất cả mặc khải” (số 2). Cựu Ước kể cho chúng ta biết làm sao mà Thiên Chúa, sau cuộc tạo dựng, bất chấp tội tổ tông và tính kiêu căng của con người muốn đặt mình vào địa vị của Đấng Tạo Hóa, lại một lần nữa ban cho họ khả năng làm bạn hữu của Ngài, đặc biệt là qua giao ước với ông Abraham và cuộc hành trình của một dân tộc bé nhỏ, dân Israel, mà Ngài chọn không với tiêu chuẩn quyền lực trần thế, nhưng chỉ đơn thuần vì yêu thương. Đó là một sự lựa chọn vẫn còn là một mầu nhiệm và cho thấy cách hoạt động của Thiên Chúa, Đấng kêu gọi một số người không phải để loại trừ những người khác, nhưng để họ hành động như cây cầu dẫn những người khác đến với Ngài: việc lựa chọn luôn luôn là một lựa chọn cho người khác. Trong lịch sử dân Israel, chúng ta có thể vẽ lại những chặng đường của một cuộc hành trình dài trong đó Thiên Chúa cho họ biết Ngài, mặc khải chính mình, đi vào lịch sử bằng lời nói và hành động. Đối với việc này, Ngài dùng các trung gian, chẳng hạn như ông Môsê, các ngôn sứ, các Thủ Lãnh (Thẩm Phán), là những người truyền đạt Thánh ý của Ngài cho dân, họ nhắc nhở dân chúng về việc cần phải trung thành với giao ước và giữ cho sống mãi lòng mong chờ ngày mà các lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện đầy đủ và dứt khoát.

Và chính việc thực hiện những lời hứa này là điều mà chúng ta đã suy niệm trong Lễ Giáng Sinh: Sự Mặc Khải của Thiên Chúa đạt đến cao điểm, đạt đến viên mãn. Trong Chúa Giêsu thành Nagiareth, Thiên Chúa thực sự thăm viếng dân Ngài, Ngài thăm viếng nhân loại bằng một cách vượt xa mọi mong đợi: Ngài đã sai Con Một Ngài. Chính Thiên Chúa đã làm người. Chúa Giêsu không nói với chúng ta một điều gì đó về Thiên Chúa, không chỉ đơn thuần nói về Chúa Cha, nhưng Người là sự Mặc Khải của Thiên Chúa, vì Người là Thiên Chúa, và như thế Người mặc khải cho chúng ta thấy Thánh Nhan của Thiên Chúa. Trong Lời Mở Đầu Tin Mừng của mình, Thánh Gioan viết: “Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ. Con Một, là Thiên Chúa, và là Ðấng hằng ở trong cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết Ngài.” (Ga 1:18).

Tôi muốn tập trung vào việc này “việc mặc khải Thánh Nhan Thiên Chúa.” Về vấn đề này, Thánh Gioan, trong Tin Mừng của ngài, cho chúng ta biết một sự kiện quan trọng. Khi cuộc khổ nạn đã gần, Chúa Giêsu đã trấn an các môn đệ, bảo các ông đừng sợ hãi và hãy vững tin; sau đó Người bắt đầu một cuộc đàm thoại với các ông, trong đó Người nói về Thiên Chúa Cha (x. Ga 14:2-9). Có một lúc, tông đồ Philiphê hỏi Chúa Giêsu, “Lạy Chúa, xin chỉ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là đủ cho chúng con rồi.” (Ga 14:8). Thánh Philiphê rất thực tế và cụ thể, ông nói ra những gì mà chúng ta cũng muốn nói, “chúng con muốn thấy, xin chỉ cho chúng con thấy Chúa Cha,” ông xin “thấy” Chúa Cha, thấy Thánh Nhan của Ngài. Câu trả lời của Chúa Giêsu là một câu trả lời không chỉ dành cho Thánh Philiphê, mà còn cho chúng ta, và dẫn chúng ta vào trung tâm của đức tin Kitô. Chúa nói: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9). Lời diễn tả này tóm tắt một cách tổng hợp tính mới mẻ của Tân Ước, tính mới mẻ ấy xuất hiện trong hang đá Bethlehem: Có thể thấy Thiên Chúa, Thiên Chúa đã tỏ cho chúng ta Thánh Nhan Ngài trong Đức Chúa Giêsu Kitô.

Chủ đề “tìm kiếm Thánh Nhan Thiên Chúa” hiện diện khắp nơi trong Cựu Ước, mong ước được biết Thánh Nhan, mong ước được thấy Thiên Chúa này quan trọng như thế nào đến nỗi từ Do Thái, panîm, có nghĩa là “khuôn mặt”, xuất hiện hơn 400 lần, và 100 lần trong số ấy nói về Thiên Chúa: 100 lần người ta nói về Thiên Chúa, người ta muốn nhìn thấy Thánh Nhan Thiên Chúa. Tuy nhiên, đạo Do Thái hoàn toàn cấm mọi hình ảnh, bởi vì Thiên Chúa không thể được mô tả như các dân lân cận của họ đã làm với việc thờ ngẫu tượng; do đó, với lệnh cấm hình ảnh này, Cựu Ước dường như loại trừ hoàn toàn “việc nhìn thấy” trong phụng tự và sùng kính. Như vậy, đối với những người Do Thái đạo đức, tìm kiếm Thánh Nhan Thiên Chúa nghĩa là gì trong khi nhìn nhận rằng không thể có hình ảnh của Ngài? Câu hỏi này thật quan trọng: một đàng, người ta muốn nói rằng Thiên Chúa không thể bị hạ xuống thành một vật, như một hình ảnh mà một người có thể cầm trong tay, nhưng người ta cũng không thể đặt một vật gì lên thay cho Thiên Chúa; tuy nhiên, đằng khác, người ta lại khẳng định rằng Thiên Chúa có một Thánh Nhan, Ngài là một “Ngài” có thể bước vào một mối quan hệ, Ngài không tự giam mình trên Trời Cao mà ngó xuống nhân loại. Thiên Chúa chắc chắn là trên mọi sự, nhưng Ngài quay mặt về phía chúng ta, lắng nghe chúng ta, thấy chúng ta, nói với chúng ta, lập giao ước, và có khả năng yêu thương. Lịch sử cứu độ là lịch sử của Thiên Chúa với nhân loại, là lịch sử về mối liên hệ này của Thiên Chúa là Đấng tự mặc khải cách tiệm tiến cho con người và cho họ biết về chính mình, cho họ biết Thánh Nhan Ngài.

Ngay từ đầu năm nay, ngày mùng 1 tháng 1, chúng ta đã nghe trong phụng vụ, kinh nguyện chúc lành tuyệt mỹ trên dân chúng: “Nguyện xin Chúa chúc lành và gìn giữ anh chị em. Nguyện xin Chúa chiếu thánh Nhan Ngài trên anh em, và độ lượng với anh chị em. Nguyện xin Chúa ghé mặt nhìn và ban bình an cho anh chị em” (Dân số 6:24-26). Sự huy hoàng của Thánh Nhan Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống, là điều cho phép chúng ta nhìn thấy thực tại, và ánh sáng của Thánh Nhan Ngài là chỉ nam hướng dẫn cuộc đời. Trong Cựu Ước có một nhân vật liên hệ cách rất đặc biệt với chủ đề “Thánh Nhan Thiên Chúa” là ông Môsê, người mà Thiên Chúa đã chọn để giải phóng dân Ngài khỏi ách nô lệ Ai Cập, để ban cho họ Luật giao ước và dẫn họ đến Đất Hứa. Vâng, chương 33 của Sách Xuất Hành nói rằng ông Môsê đã có một mối liên hệ chặt chẽ và thân tín với Thiên Chúa: “Chúa nói với ông Môsê mặt đối mặt, như một người nói chuyện với bạn mình” (câu 11). Nhờ sự tin tưởng này, ông Môsê xin Chúa: “Xin tỏ cho con vinh quang của Chúa,” và câu trả lời của Thiên Chúa thật rõ ràng: “Ta sẽ bày tỏ sự tốt lành của Ta ra trước mặt ngươi; Ta sẽ công bố Danh Chúa trước mặt ngươi … Nhưng ngươi sẽ không thấy dung nhan Ta, vì không ai thấy nhan Ta mà vẫn còn sống … Đây là chỗ gần Ta … ngươi sẽ thấy phía sau của Ta; nhưng thấy nhan Ta thì không được.” (các câu 18-23). Như vậy, một đàng có một cuộc đối thoại mặt đối mặt như giữa bạn bè, nhưng đàng khác, trong cuộc sống này, có một điều bất khả thi là nhìn thấy Thánh Nhan Thiên Chúa, là điều vẫn còn tàng ẩn; nhãn quan bị hạn chế. Các Giáo Phụ nói rằng những lời này, “ngươi sẽ chỉ thấy phía sau của Ta”, có nghĩa là: chúng ta chỉ có thể theo Đức Kitô và khi đi theo Người chúng ta thấy mầu nhiệm của Thiên Chúa từ phía sau; người ta có thể theo Thiên Chúa trong khi thấy phía sau của Ngài.

Tuy nhiên, có điều gì mới mẻ xảy ra với việc nhập thể. Việc tìm kiếm Thánh Nhan Thiên Chúa trải qua một thay đổi không thể tưởng tượng được, bởi vì giờ đây người ta có thể nhìn thấy Thánh Nhan này: là Thánh Nhan của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người. Trong Người, con đường mặc khải của Thiên Chúa, khởi đầu với ơn gọi của ông Abraham được hoàn thành; Người là sự viên mãn của mặc khải này vì Người là Con Thiên Chúa, Người vửa là “Đấng Trung Gian và sự viên mãn của tất cả mặc khải” (Hiến Chế Tín Lý Dei Verbum, 2), và trong Người nội dung của Mặc Khải và Đấng Mặc Khải trùng hợp nhau. Chúa Giêsu cho chúng ta thấy Thánh Nhan Thiên Chúa và dạy chúng ta biết Danh Thiên Chúa trong kinh nguyện tư tế trong Bữa Tiệc Ly, Người thưa cùng Chúa Cha: “Con đã tỏ lộ Danh Cha cho những người mà Cha đã lấy từ thế gian mà ban cho Con... Con đã cho họ biết Danh Cha” (x. Ga 17:6,26). Thuật ngữ “Danh Thiên Chúa” có nghĩa là Thiên Chúa là Đấng hiện diện giữa loài người. Nơi bụi gai bốc cháy, Thiên Chúa đã tiết lộ cho ông Môsê Danh Ngài, đã làm cho người ta có thể kêu cầu Danh Ngài, đã ban cho một dấu chỉ cụ thể về “sự hiện hữu” của Ngài giữa loài người. Tất cả điều này tìm thấy sự hoàn thành và viên mãn trong Chúa Giêsu: Người khai mào một cách hiện diện mới của Thiên Chúa trong lịch sử, bởi vì ai thấy Người là thấy Chúa Cha, như Người nói với Thánh Philiphê (x. Ga 14:9). Thánh Bernađô nói Kitô giáo là “tôn giáo của Lời Chúa,” tuy nhiên, “không phải một từ bằng văn tự và lặng câm, nhưng Lời nhập thể và sống động” (Hom. super missus est, IV, 11: PL 183, 86B). Trong các truyền thống Giáo Phụ và Trung Cổ, người ta sử dụng một công thức đặc biệt để diễn tả thực tại này: Chúa Giêsu là Verbum abbreviatum (x. Rm 9:28, nói về Isai 10:23), Người là Lời ngắn, Lời thu gọn và đáng kể của Chúa Cha, Đấng đã nói với chúng ta mọi sự về Ngài. Trong Chúa Giêsu, toàn thể Lời Chúa hiện diện.

Trong Chúa Giêsu, ngay cả việc làm trung gian giữa Thiên Chúa và loài người cũng được hoàn thành. Trong Cựu Ước, có một số nhân vật đã thực hiện nhiệm vụ này, đặc biệt là ông Môsê, vị giải phóng, vị hướng dẫn, “trung gian” của giao ước, như Tân Ước cũng xác định về ông (x. Gl 3:19; Cv 7:35, Ga 1:17). Chúa Giêsu, Thiên Chúa thật và người thật, không phải là chỉ đơn thuần là một trong những vị trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, nhưng Người là “trung gian” của Giao Ước Mới và vĩnh cửu (x. Dt 8:6; 9:15, 12:24), Thánh Phaolô nói, “Vì chỉ có một Thiên Chúa duy nhất và một Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, con người Đức Chúa Giêsu Kitô” (1 Tim 2:5, Gl 3:19-20). Trong Người chúng ta thấy và gặp gỡ Chúa Cha; trong Người chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là “Abba, Lạy Cha”; trong Người chúng ta được ban ơn cứu độ.

Ở trong mỗi người, ngay cả những người vô thần, đều có ước muốn thật sự biết Thiên Chúa, nghĩa là, được thấy Thánh Nhan Thiên Chúa. Và chúng ta có lẽ vô tình có ước muốn này, là ước muốn đơn thuần thấy Ngài là ai, Ngài là gì, và Ngài là ai đối với chúng ta. Nhưng ước muốn này được thể hiện bằng cách theo Đức Kitô, để chúng ta thấy phía sau của Ngài và cuối cùng cũng thấy Thiên Chúa như một người bạn, thấy Thánh Nhan Ngài trong gương mặt của Đức Kitô. Điều quan trọng là chúng ta không chỉ theo Đức Kitô khi chúng ta cần Người và khi chúng ta có thì giờ rảnh rỗi trong những công việc hàng ngày của mình, nhưng phải theo như thế trong toàn thể cuộc đời chúng ta.

Toàn thể cuộc đời chúng ta phải được hướng đến cuộc gặp gỡ với Người, yêu mến Người, và trong cuộc đời ấy, tình yêu thương người lân cận phải giữ một địa vị trung tâm, tình yêu đó, trong ánh sáng của Đấng Chịu Đóng Đanh, giúp chúng ta nhận ra khuôn mặt của Chúa Giêsu trong những người nghèo, người yếu đuối và người đau khổ. Điều này chỉ có thể được nếu khuôn mặt thật của Chúa Giêsu đã trở nên quen thuộc với chúng ta trong việc lắng nghe Lời Người, trong việc thưa chuyện với Người cách nội tâm, trong việc đi vào Lời này một cách nào để chúng ta thực sự gặp gỡ Người, và đương nhiên là trong mầu nhiệm Thánh Thể. Trong Tin Mừng của Thánh Luca có một đoạn quan trọng về hai môn đệ ở Emmau, họ nhận ra Chúa Giêsu trong việc bẻ bánh, nhưng họ đã được chuẩn bị sẵn sàng bởi hành trình mà trên đó họ đồng hành với Người, được chuẩn bị bởi lời mời mà họ xin Người ở lại với họ, được chuẩn bị bởi cuộc đối thoại khiến lòng họ bừng cháy; để rồi cuối cùng, họ thấy Chúa Giêsu.

Đối với chúng ta cũng thế, Thánh Thể là trường học tuyệt vời, trong đó chúng ta học để thấy Thánh Nhan Thiên Chúa, chúng ta bước vào một mối liên hệ mật thiết với Ngài, đồng thời học hướng cái nhìn của mình về giây phút cuối cùng của lịch sử, khi Ngài sẽ làm cho chúng ta no thỏa với ánh sáng của Thánh Nhan Ngài. Trên trần gian, chúng ta đi về phía sự viên mãn này, trong khi vui mừng chờ đợi Nước Thiên Chúa thật sự được thể hiện. Cảm ơn anh chị em.
 

Mittwoch, Januar 16, 2013

MẾN YÊU VÀ HỌC ĐÒI MẸ MARIA, MẸ THIÊN CHÚA VÀ MẸ CHÚNG TA

Chủng Viện Thánh Tâm Mỹ Đức Thái Bình
Tĩnh Tâm tháng 1, 2013


1. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa
Chúng ta có những chứng cứ Thánh Kinh, như ngôn sứ Isaia tiên báo: “Này đây một trinh nữ sẽ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel” (Is 7,14); sứ thần Gabriel nói với Mẹ Maria: “Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu” (Lc 1,31-33); lời chúc mừng do ơn Chúa Thánh Thần soi sáng của bà Elisabet: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến viếng thăm tôi?” (Lc 1,43); thánh Phaolô cũng viết: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người nữ, và sống dưới Lề Luật, để cứu chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4,4). Cuối cùng, Thánh Gioan trong sách Khải Huyền xem thấy một người phụ nữ, đầu đội mặt trời, chân đạp mặt trăng, và trên đầu có triều thiên 12 ngôi sao. Người phụ nữ đó “sinh ra một người Con Trai và người Con Trai đó sẽ lấy vương trượng sắt chăn dắt các dân hết thảy” (Kh 12,1-5). Công đồng Nicêa năm 325 đã lên án lạc giáo Ariô cho rằng Chúa Giêsu được tạo dựng và không đồng bản thể với Chúa Cha, đồng thời định tín Ngôi Lời đồng bản thể với Đức Chúa Cha, và đặt ra Kinh Tin Kính, gọi là kinh Tin Kính Nicêa chúng ta đọc trong thánh lễ. Công đồng Êphêsô năm 431 kết án lạc thuyết của Nestôriô (386-451) cho rằng “Đức Maria chỉ là mẹ của một con người mà Con Thiên Chúa đã kết hợp với” và dứt khoát xác định Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Công đồng Chalcedoine năm 451 và Constantinople năm 533 nhắc lại khẳng định này chống lại lạc thuyết Adoptionism (Nghĩa tử thuyết) cho rằng Chúa Kitô được sinh ra như một người bình thường rồi sau đó được nhận là con Thiên Chúa.
Chính Công đồng Can-xê-đoan xác định cách minh bạch tín điều về huyền nhiệm của Chúa Giêsu và Mẹ Maria rằng: “
Tất cả chúng tôi đồng lòng tuyên xưng một Chúa Con độc nhất và luôn luôn là một. Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta toàn vẹn về thiên tính, toàn vẹn về nhân tính, Thiên Chúa thật và người thật, được cấu thành bởi một linh hồn có lý trí và một thân xác, đồng bản tính với Chúa Cha do thiên tính, đồng bản tính với chúng ta bởi nhân tính, tất cả đều giống như chúng ta trừ tội lỗi (Dt 4,15), được sinh ra bởi Chúa Cha, trước mọi thời gian theo thiên tính, được sinh ra trong những ngày cuối cùng này vì chúng ta và để cứu độ chúng ta, bởi Đức Maria, Mẹ trinh nguyên của Thiên Chúa theo nhân tính: một Chúa Ki tô duy nhất. Con độc nhất, mà chúng ta phải nhận biết trong hai bản tính không lẫn lộn, không thay đổi, không phân ly, không tách biệt.” GLGHCG tuyên xưng “Trong dòng dõi bà Evà, Thiên Chúa đã chọn Ðức Trinh Nữ Maria làm Mẹ của Con Ngài… Ðức Maria thực sự là Mẹ Thiên Chúa vì là Mẹ của Con Thiên Chúa làm người, người Con hằng hữu ấy cũng chính là Thiên Chúa” (x. số 508-509). “Thực vậy, từ những thời rất xa xưa, Ðức Nữ Trinh đã được tôn kính dưới tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa”, và các tín hữu đã khẩn cầu cùng ẩn náu dưới sự che chở của Mẹ trong mọi cơn gian nan khốn khó... Sự tôn kính ấy, như vẫn luôn có trong Hội Thánh… được diễn tả qua các lễ phụng vụ dành cho Thánh Mẫu Thiên Chúa và trong kinh nguyện kính Ðức Mẹ như kinh Mân Côi, được xem như “tóm lược toàn bộ Tin Mừng” (số 971). Công đồng Vatican II (1962-1965) dạy: “Từ muôn đời, Đức Trinh Nữ đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa... Đức Trinh Nữ nhờ ơn huệ và vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được hợp nhất với Con Mẹ là Đấng Cứu Chuộc và hiệp nhất với Giáo hội…” (LG số 63). Đức Gioan Phaolô II nói trong bài giảng khai mạc ba năm chuẩn bị Đại Năm Thánh 2000: “Khi làm người, Con Thiên Chúa, Ngôi Lời đồng bản thể với Chúa Cha, đã nhận lấy thời gian của chúng ta trong mọi chiều kích và Ngài hướng thời gian về vĩnh cửu. Thực vậy, vĩnh cửu là chiều kích của Thiên Chúa. Khi nhập thể làm người, với nhân tính của Ngài, Con Thiên Chúa cũng chấp nhận trọn vẹn thời gian của nhân loại, để dẫn con người qua mọi chiều kích của thời gian này hướng về vĩnh cửu, và cho con người được tham dự vào cuộc sống thần linh vốn là gia sản đích thực của Chúa Cha, Chúa Con, và Thánh Linh.” Lui về quá khứ, chúng ta gặp thấy ĐGH Pio XI viết trong Thông điệp “Ánh sáng Chân lý” (Lux Veritatis) rằng: “Đấng đã sinh hạ Chúa Giêsu xứng đáng được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Nếu Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa, thì tất cả mọi người chắc chắn phải gọi Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chứ không chỉ là Mẹ của Đức-Kitô-Người mà thôi. Cũng như các phụ nữ khác được gọi là mẹ và họ thực sự là mẹ, bởi vì họ đã hình thành trong lòng dạ họ bản chất con người phải chết, chứ không phải là họ đã tạo dựng nên linh hồn con người, thì cũng vậy Đức Maria đã chiến hữu được chức làm Mẹ Thiên Chúa vì đã sinh ra Con Người duy nhất của Chúa Giêsu, Con Mẹ.” Đây là một vinh dự lớn lao Thiên Chúa dành riêng cho một mình Mẹ, một người duy nhất trong tất cả loài người chúng ta.
2. Lễ Mẹ Thiên Chúa
Mười lăm thế kỷ sau Công đồng Ephêsô (năm 431), năm 1931, để kỷ niệm ngày tuyên bố tín điều Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, ĐGH. Piô XI lập lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, kính trọng thể trong khắp Giáo Hội vào ngày 11 tháng 10 hằng năm. ĐGH. Phaolô VI dời ngày lễ vào đầu năm dương lịch 01 tháng 01, để cho mọi người hướng về Mẹ Maria khi bước vào năm mới và cầu nguyện cho Hoà Bình Thế Giới. Ngài viết: “Lễ này cũng là dịp rất tốt để chúng ta tôn thờ Vua Hòa Bình mới sinh, và nghe lại lời chúc hoà bình của các thiên sứ (Lc 2,14), để cầu Chúa, nhờ sự can thiệp của Nữ Vương Hòa Bình, ban cho ta ơn cao cả nhất là Hòa bình” (ĐGH Phaolô VI, Marialis Cultus, số 5b). Năm mới, chúng ta có Mẹ trong đời thật quá tuyệt vời!
Tước hiệu Mẹ Thiên Chúa là tước hiệu chính của Đức Mẹ. Đây là địa vị cao trọng nhất Thiên Chúa ban tặng cho Mẹ Maria. Các ơn khác của Mẹ đều bắt nguồn từ ơn trọng đại này. Giáo Hội không cử hành lễ mừng kính Đức Mẹ nào mà không chúc tụng Mẹ vì đặc ân lớn lao làm Mẹ Thiên Chúa này: Giáo Hội kính chào Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa khi Mẹ được thụ thai vô nhiễm nguyên tội, Lễ Sinh Nhật Đức Mẹ trong ngày Mẹ sinh ra, Lễ Truyền Tin Ngôi Lời nhập thể, Lễ Thăm Viếng khi Mẹ đi thăm bà Elizabeth, Lễ Mong Triệu Thăng Thiên trong biến cố Mẹ hồn xác về trời. Các Nghị Phụ Công Đồng Ephêsô đã thêm vào lời chào “Kính mừng Maria” câu “
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử” và chúng ta vẫn tuyên xưng khi lần hạt Mân Côi kính Đức Mẹ.
 3. Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu và Mẹ của chúng ta
Chúa Giêsu cần có một người mẹ để được cưu mang, được sinh ra, được lớn lên như một con người, huống gì chúng ta. Đức Maria không chỉ là Mẹ Thiên Chúa, mà còn là Mẹ của Nhân Loại, một Evà mới đem lại sự sống cho nhân loại. Lẽ nào chúng ta lại không muốn có được người Mẹ này. Một người Mẹ đã được Thiên Chúa sủng ái, được cất nhắc lên bậc cao trọng phi thường, được đặt vào chỗ cao nhất sau Thiên Chúa. Chúng ta không còn đủ lời ca tụng nào hơn để tôn vinh danh Đức Maria cho cân xứng. Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu cảm xúc nói với Mẹ Maria trong Truyện Một Tâm Hồn rằng “con là người có phúc hơn Mẹ, vì con có Mẹ là Mẹ. Còn Mẹ không được phúc như con, vì Mẹ không có mẹ giống như Mẹ.” Công đồng Vaticanô II nói trong Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội rằng “Ðức Maria luôn tiếp tục thiên chức làm mẹ, từ khi Ngài tin tưởng ưng thuận trong ngày Truyền Tin - sự ưng thuận mà Ngài đã không ngần ngại giữ vững bên thập giá - cho tới lúc vĩnh viễn hoàn tất việc cứu rỗi mọi người được tuyển chọn. Thật vậy, sau khi về trời, vai trò của Ngài trong việc cứu độ không chấm dứt, nhưng Ngài vẫn tiếp tục liên lỉ cầu bầu để đem lại cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được phần rỗi đời đời. Với tình từ mẫu, Ngài chăm sóc những anh em của Con Ngài đang lữ hành trên dương thế và đang gặp bao nguy hiểm, thử thách, cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc quê trời. Vì thế, trong Giáo Hội, Ðức Nữ Trinh được kêu cầu qua các tước hiệu: Trạng Sư, vị Bảo Trợ, Ðấng Phù Hộ và Ðấng Trung Gian” (LG số 62). “Ðức Trinh Nữ nhờ ân huệ và sứ mệnh làm Mẹ Thiên Chúa, nhờ đó Ngài được hiệp nhất với Con là Ðấng Cứu Chuộc, và nhờ các ân huệ và nhiệm vụ đặc biệt khác, Ngài còn kết hiệp mật thiết với Giáo Hội, như thánh Ambrosiô đã dạy, Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin, đức ái và hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô… Thiên Chúa đã đặt Người Con Ngài sinh ra làm Trưởng Tử trong nhiều anh em (x. Rm 8,29), nghĩa là các tín hữu, mà Ngài cộng tác vào việc sinh hạ và giáo dục với tình thương của một người mẹ” (LG số 63). Người mẹ đó được chính Chúa Cứu Thế ban đặc biệt cho các linh mục qua người môn đệ yêu quí là thánh Gioan, như chính ngài thuật lại trong Phúc Âm của mình: “Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Maria Mácđala. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 19, 25-27).
4. Mẹ là nơi chúng ta chạy đến nương ẩn
Đức Giáo Hoàng Pio XI đã viết trong Thông điệp Ánh sáng chân lý: “Hôm nay, khi kính chào Mẹ với tước hiệu lớn lao là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta đừng quên rằng bởi chính sự kiện đã trao ban sự sống cho Đấng Cứu Rỗi loài người, Mẹ đã trở thành Mẹ rất dịu hiền của chúng ta, và Chúa Kitô đã muốn chúng ta là em của Người. Khi lựa chọn Mẹ là Mẹ của Con Người, Thiên Chúa đã khắc ghi nơi Mẹ các tâm tình hoàn toàn hiền mẫu, chỉ hít thở tình yêu và sự tha thứ.” Từ vinh quang thiên quốc nơi Mẹ đang sống, xin Mẹ nhớ đến chúng con, chúng con cầu khẩn Mẹ với biết bao vui mừng và trông cậy. Thánh Bonaventura đã nói: “Đấng Toàn Năng ở với Mẹ và cùng Người, cho Người và sau Người, Mẹ cũng toàn năng”… Và thánh Thánh Bênađô tha thiết: Mẹ biết một cách chắc chắn rằng Thiên Chúa nhận các ước mong của Mẹ. Chúng con là những kẻ tội lỗi, nhưng Mẹ đã trở thành Mẹ Thiên Chúa vì chúng con và chưa từng nghe nói có ai trong số những người chạy đến với Mẹ mà bị Mẹ từ bỏ. Ôi Trinh Nữ của các trinh nữ, ôi Mẹ của chúng con, được linh hoạt bởi sự trông cậy đó, chúng con chạy đến với Mẹ, rên siết dưới sức nặng các lỗi lầm của chúng con, và chúng con sấp mình dưới chân Mẹ, ôi Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể, xin đừng khinh chê các lời cầu của chúng con, xin ghé mắt nhìn và nhận lời chúng con.” Đức Maria là mẹ chúng ta, nên Mẹ luôn nâng đỡ bầu cử cho chúng ta trước mặt Chúa. Không biết đến Mẹ là không biết đến món quà quí giá mà Thiên Chúa đã ban tặng, đó chính là tình mẫu tử của Mẹ Maria đối với chúng ta. Có câu chuyện hư cấu về một bà mẹ kia không thể nào quên được đứa con tử nạn đã lâu. Nỗi sầu thương cứ mãi mãi vương vấn tâm hồn, bà luôn cầu nguyện để được gặp lại con. Chúa sai thiên thần hỏi bà muốn gặp nó vào tuổi nào: như một người trưởng thành, hoặc như một đứa bé chạy nhảy trên sân trường, hay như một em bé nép mình trong lòng bà? Không do dự, bà muốn được gặp lại con như một đứa bé yếu đuối, nước mắt ràn rụa chạy đến ngả vào lòng bà. Quả thật như người mẹ thường nói “Dù con lớn bao nhiêu tuổi, con vẫn là con của mẹ, dù con có đi tới cùng trời cuối đất thì lòng mẹ vẫn hằng theo con suốt đời.” Còn thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu vào những ngày cuối đời cũng đã thân thưa với Đức Mẹ: “Mẹ đã đến mỉm cười với con trong buổi tinh sương đời sống thì giờ đây nữa xin Mẹ cũng đếm mỉm cười với con vì đây là buổi chiều tà.
5. Mẫu gương vâng phục và phó thác của Đức Mẹ
Thánh sử Luca ghi: “Bà Maria hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2, 19). Mẹ lặng thinh chiêm ngắm và chiêm nghiệm tình yêu Thiên Chúa đã mặc khải qua Đức Giêsu - Ngôi Lời Nhập Thể. Việc thường xuyên tiếp xúc với Chúa của Mẹ đã giúp Mẹ luôn sống và kết hiệp với Ngài và nhờ đó cả cuộc đời Mẹ là một cuộc đời “xin vâng” và phó thác theo ý của Thiên Chúa: thuận theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh cho tới phút cuối cùng khi đứng dưới chân thập giá của Đức Giêsu, Con Mẹ. Trước hồng ân vĩ đại được làm Mẹ Thiên Chúa, Đức Maria chỉ biết dâng lời ca khen Thiên Chúa, “Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1, 49). Dù ở địa vị làm Mẹ Thiên Chúa, một địa vị cao nhất, nhưng không vì thế Mẹ tỏ thái độ kiêu căng, trái lại Mẹ trở nên dụng cụ rất khiêm tốn để Thiên Chúa thực hiện ý của Ngài: “Này tôi là tớ nữ của Chúa, hãy thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói.” Mẹ Maria đã dâng cho Thiên Chúa tất cả: máu huyết của mình, danh dự của mình, đời sống của mình. Tất cả trong tâm tình khiêm tốn và phó thác, suy niệm và tạ ơn. Như Mẹ Maria, chúng ta được mời gọi đáp lại tình yêu của Thiên Chúa, cộng tác với chương trình cứu độ nhân loại qua những bổn phận hàng ngày của chúng ta. Tâm tình của chúng ta cần được hoà quyện với tâm tình của Mẹ Maria và thánh Phaolô: “tôi có là gì cũng nhờ hồng ân Thiên Chúa.” “Dưới đất này, cho tới ngày Chúa đến (x. 2P 3,10), Mẹ Maria chiếu sáng như dấu chỉ lòng cậy trông vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành” (LG số 68). “Tất cả mọi Kitô hữu hãy thiết tha khẩn nguyện Mẹ Thiên Chúa cũng là Mẹ loài người, để như Ngài đã trợ giúp Giáo Hội sơ khai bằng lời cầu nguyện của mình, thì ngày nay được tôn vinh vượt trên các Thần Thánh trên trời, Ngài cũng cầu bầu cùng Con Ngài trong sự hiệp thông toàn thể các thánh cho tới khi mọi dân tộc hoặc đã mang danh hiệu Kitô hữu, hoặc chưa biết Ðấng Cứu Chuộc mình, đều hân hoan đoàn tụ trong an bình và hòa thuận, hợp thành một dân Thiên Chúa duy  nhất, hầu vinh danh Ba Ngôi Thiên Chúa rất thánh và không phân chia” (LG số 69). Hãy tiếp rước Đức Mẹ vào lòng, vào gia đình và vào môi trường xã hội nơi chúng ta làm việc. Có Đức Mẹ đồng hành, chúng ta sẽ bước đi trong an ninh và không sợ hãi bất cứ điều gì. Tiến bước với Đức Mẹ và được Đức Mẹ chở che, chắc chắn chúng ta sẽ gặp được Đức Chúa Giêsu Kitô. Đức Thánh Cha Biển-Đức XVI, khi xuất hiện lần đầu tiên trước công chúng sau khi được bầu Giáo Hoàng, đã nói: “Chúng ta hãy can đảm tiến bước vì có Đức Mẹ Maria ở với chúng ta”. Có Đức Mẹ bên cạnh thì đường chúng ta đi sẽ trở nên an toàn. Có Đức Mẹ đồng hành chúng ta có thể cùng nhau xây dựng một thế giới hòa bình, công chính và huynh đệ. Có Đức Mẹ cùng đi, chúng ta sẽ không bao giờ bị lạc lối. Có Đức Mẹ dẫn đường và nâng đỡ, chắc chắn chúng ta sẽ được tới bến thiên đàng. Amen.
Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy, pss (sưu tầm và biên tập)
Nguồn: http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=home&v=detail&ia=10822

Montag, Januar 14, 2013

Tuần lễ Hiệp nhất 2013: Thân thể mầu nhiệm

Lm. Thomas Tuý, OP.b1/13/2013

THÂN THỂ MẦU NHIỆM

Chúng ta đã học hỏi: Chúa Giêsu thiết lập Giáo hội hữu hình để tiếp tục công việc của Ngài trên thế gian. Lúc này, chúng ta tiến xa hơn nữa: Giáo hội ấy không những là một tổ chức nhưng là một xã hội, một thân thể sống động, một cơ quan có đời sống bí nhiệm, một dòng sông sự sống thiêng liêng. Gọi tắt là thân thể màu nhiệm Đức Kitô.

CÂY NHO VÀ CÀNH NHO

Chúng ta còn nhớ Đức Kitô đã nói với Phêrô và các Tông đồ trước khi về trời: “Này đây thày ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Nghĩ kỹ câu này chúng ta thấy Ngài ám chỉ mối liên kết giữa Ngài và Hội thánh là vĩnh viễn. Sau này Ngài rõ ràng hơn, như thánh Gioan thuật lại trong bữa tiệc ly, Ngài so sánh tương giao giữa Ngài và Hội thánh như cây nho và cành nho: “Ai không ở lại trong Thày, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi. Nếu anh em ở lại trong Thày và lời Thày ở lại trong anh em, thì muốn gì anh em cứ xin anh em sẽ được như ý (Ga 15, 6-7). Ngài tiếp “Con không chỉ cầu xin cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào Con, để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ cùng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17, 20-21). Trong hai lời trích này, chúng ta nghiệm ra nó là lời giải thích đầy đủ những câu khác của Chúa Giêsu trong đó Ngài cũng ban mực thước xét đoán: “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).

NGƯỜI SÁNG LẬP VÀ CÁC HỘI VIÊN

Trên đường truy nã các tín hữu, đến gần cửa thành Damascus thì thánh Phaolô nhận được mạc khải đặc biệt về mối liên hệ giữa Chúa và các tín hữu Ngài. Ông ngã ngựa và nghe tiếng từ trời nói: “Saul, Saul, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Ông hỏi lại: Thưa ngài, ngài là ai? Và ông nghe thấy tiếng trả lời: Ta là Giêsu mà ngươi đang bách hại” (Cv 9,4). Chúa Giêsu đồng hóa mình với các tín hữu thật rõ ràng. Và trong nhiều chỗ khác, thánh nhân xác nhận chân lý ấy. ông viết trong thơ gởi giáo đoàn Côrintô: “Thậy vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy, thật thế tất cả chúng ta dẫu là Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí. Thật vậy, thân thể gồm nhiều bộ phận, chứ không phải chỉ có một bộ phận mà thôi… Thiên Chúa đã đặt mỗi bộ phận vào một chỗ trong thân thể như ý Ngài muốn… Những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại cần thiết nhất, những bộ phận ta coi là tầm thường nhất thì ta lại tôn trọng hơn cả… Nhưng Thiên Chúa đã khéo xếp đặt các bộ phận trong thân thể để bộ phận kém thì đáng tôn trọng nhiều hơn. Như thế không có chia rẽ trong thân thể trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau. Nếu bộ phận nào đau thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cùng vui chung. Vậy anh em là thân thể Đức Kitô và mỗi người là một bộ phận” (ICor 12,12). Rồi thơ gởi giáo đoàn Êphêsô: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa… Chúng ta sống với Thiên Chúa, đấng ngự trong chúng ta. Chúng ta phải lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Kitô vì Người là Đầu, chính Ngài làm cho các bộ phận ăn khớp với nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ, nhờ một thứ mạch nuôi dưỡng, và mỗi chi thể đều hoạt động theo chức năng của mình. Như thế, Ngài làm cho toàn thân lớn lên và được xây dựng trong tình bác ái” (4, 4-16).

Ý NGHĨA CỦA ẨN DỤ

Chúng ta hãy suy nghĩ về ba so sánh này. Hai cái của Chúa Giêsu (Thiên Chúa duy nhất Ba Ngôi, cành nho với thân nho) và một cái do thánh Phaolô (thân thể con người). Trong ẩn dụ thứ nhất: Bản tính Chúa Ba Ngôi là một, nhưng Ba Ngôi Vị Thần linh khác nhau và chúng ta được chia sẻ đời sống thần linh ấy, nhận biết và yêu mến Ngài kiểu như Ngài nhận biết và yêu mến chính mình. Chúng ta chỉ thực hiện được điều này qua Đức Giêsu Kitô. Chúng ta kết hợp với Đức Giêsu qua ơn thánh siêu nhiên như cành nho gắn liền với thân nho. Bởi sự chia sẻ như thế, chúng ta nhận được quyền năng vượt xa bản tính tự nhiên của mình. Chúng ta chia sẻ quyền năng và sự sống của Ngài. Cây nho đâm rễ sâu và lòng đất hút nhựa mà sống thế nào thì cũng có thể nói, Đức Kitô đâm rễ sâu vào Ba Ngôi Thiên Chúa để có quyền năng và sự sống siêu nhiên như vậy. Và qua Đức Kitô Thiên Chúa thật và là người thật, đời sống Chúa Ba Ngôi chảy tràn xuống những ai kết hợp với Đức Kitô. Như thế các cành cây sống nhờ kết hiệp với thân nho. Những ai kết hiệp với Đức Kitô sẽ sống nhờ Đức Kitô. Đây là đời sống thần linh. Qua đời sống siêu nhiên này, ở dưới đất, chúng ta được biết và yêu mến Thiên Chúa bằng đức tin, đức cậy và đức mến. Sau khi chết đời sống sẽ nở hoa, và hạnh phúc tràn trề qua trực tiếp diện kiến Thiên Chúa.

Bây giờ tới ẩn dụ của thánh Phaolô. Người ta chú ý rằng cuộc đời của mỗi người: Nếu cái đầu là khôn, cuộc sống người ta sẽ khôn ngoan. Nếu cái đầu là dại, cuộc sống sẽ ngu dại, chẳng thể khác được. Như vậy, đầu là trung tâm của mọi chức năng quan trọng, nghe nhìn, ăn nói và qua bộ óc, suy nghĩ, ước muốn. Như thế, mọi hoạt động của con người phát xuất từ cái đầu. Thánh Phaolô bảo rằng chúng ta kết hiệp với Đức Kitô là đầu trong thân thể màu nhiệm. Ngài là đầu, các tín hữu là thành viên, giống như cái đầu là nguồn mạch và trung tâm của cuộc sống thân xác và quyết định phẩm chất của nó, thì Đức Kitô quyết định phẩm chất cuộc sống siêu nhiên của những ai kết hiệp với Ngài trong cùng một thân thể là Hội thánh.

Do đó, thánh Augustinô gọi Hội thánh là “Đức Kitô toàn thể” (Totus Christus). Đức Giáo Hoàng Piô XII viết về Giáo hội trong thông điệp của ngài: “Hội thánh vốn dĩ đã trở nên vẹn toàn và bổ túc cho Đấng Cứu Thế, và trong nghĩa nào đó, Đức Kitô qua Hội thánh đạt tới sự viên mãn trong hết thảy”. Ngài thêm: “Chúng ta đụng đến cái lý do thánh Augustinô gọi Đức Kitô là đầu màu nhiệm, Hội thánh trên trái đất là Kitô khác mang danh hiệu ngôi vị Ngài, hợp thành một người mới. Trong con người mới này, trời đất được khóa chặt vào công trình của thập giá đến muôn đời, bởi một Đức Kitô, đầu và thân thể, tôi muốn nói Đức Kitô toàn thể.”

NGUY HIỂM

Suy gẫm kỹ về sự kết hợp nên một giữa Chúa Giêsu Kitô và các tín hữu mang lại cho chúng ta nhiều soi sáng và trợ giúp thiêng liêng. Điều này đã rõ. Nhưng có mối nguy hiểm cần phải tránh. Đó là người tín hữu quá nhiệt thành vào kiểu kết hợp này đến nỗi họ vượt giới hạn một thụ tạo và xâm nhập vào đời sống thần linh, ngay cả coi phẩm chất Thiên Chúa là đầu, chỉ về mình. Đi xa hơn nữa, họ dễ rơi vào sai lầm đồng hóa Chúa Kitô với Hội thánh hữu hình, cho đến độ coi chỉ là một nhân cách vật lý. Chúng ta phải phân biệt rõ rệt Chúa Kitô vật lý và thân thể màu nhiệm Ngài.

Có tác giả so sánh Hội thánh xét như thân thể màu nhiệm với một công ty liên doanh. Ông Minh là giám đốc công ty bỏ tiền ra mua cổ phiếu, và công ty trở thành công ty Minh Ký. Kết quả là sự thống nhất pháp luật, mà không phải là vật lý. Cái thực thể mới sản xuất ra một món đồ. Người ta gọi là hàng của ông Minh hay của công ty thì cũng vậy. Và công ty có một pháp nhân tức được nhà nước bảo hộ như một thực thể duy nhất, nhưng thực ra gồm ông Minh và các cổ đông. Thực thể này là thực thể luân lý khác với ông Minh vật lý. Tất cả các cổ đông trong đó có ông Minh hợp thành một đơn vị duy nhất có tính pháp lý và xã hội. Tuy nhiên trong xã hội ấy ông Minh vật lý không thông truyền sức sống cho các thành viên của Công ty. Chúa Giêsu thì khác, Ngài thông ban sức sống thiêng liêng cho các tín hữu tức ơn thánh và các khả năng khác cho mọi người tin vào Thiên Chúa.

Khi dùng ẩn dụ thân thể màu nhiệm, thánh Phaolô nói đến thủ cấp của nhân loại là Đức Kitô vật lý đã cứu vớt và thánh hóa các linh hồn. Nhưng thánh nhân cũng đề cập đến một nhân cách khác, nhân cách luân lý, gồm Đức Kitô là đầu và các thành viên khác, tất cả đều là một thân thể. Như vậy, Đức Kitô vật lý chịu đau khổ và chết để cứu chuộc nhân loại. Nhưng Đức Kitô toàn thể (thân mình màu nhiệm) thực tế ban cho loài người sở hữu các ơn thánh.

Ý NGHĨA

Như vậy, Hội thánh có ý nghĩa hơn là một tổ chức luân lý. Người ta thường gọi là thân thể màu nhiệm Đức Kitô. Tuy nhiên ở đây, chúng ta gặp một khó khăn khác có thể làm cho thiên hạ nghĩ sai. Từ ‘màu nhiệm’ hàm ý là vô hình, không sờ mó được, hoàn toàn tinh thần. Hội thánh thì hữu hình và có tổ chức như một xã hội trần gian, có giáo dân và hàng giáo phẩm, có đức giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo hữu thì làm sao gọi được là vô hình? Ở đây xin thưa chữ “màu nhiệm” chỉ để nói rằng Giáo hội khác với Đức Kitô vật lý, Giáo hội không phải là Đức Giêsu vật lý. Giáo hội là màu nhiệm Thiên Chúa. Hội thánh được sinh ra trong màu nhiệm, đầy những màu nhiệm, phân phát các màu nhiệm. Cho nên danh từ màu nhiệm dùng để phân biệt Hội thánh khỏi các tổ chức xã hội trần tục hoặc các xã hội luân lý, như công ty cổ phần chúng ta vừa nói ở trên. Giáo hội là một thực thể thống nhất cao hơn, thiêng liêng hơn, như Đức Kitô đã so sánh cây nho với các cành. Chúng ta quen gọi là thân thể màu nhiệm Đức Kitô.

CÁC THÀNH VIÊN

Chúng ta là thành phần trong nhiệm thể. Nhưng không có nghĩa là chúng ta đánh mất nhân cách, chỉ có nghĩa là chúng ta sống trong Đức Kitô và Ngài trong chúng ta như cành nho và thân nho. Tất cả mọi thành phần làm nên một Hội thánh và Hội thánh kết hợp với Chúa Giêsu một cách hữu cơ để trở thành khối duy nhất. Qua Giáo hội Ngài tiếp tục hoạt động trên thế giới như Ngài đã từng hoạt động với thân xác thể lý. Ngài sống trong Hội thánh, và Giáo hội sống trong Ngài. Đây là một màu nhiệm chúng ta không nắm bắt được rõ ràng.

Chúng ta chỉ có thể suy gẫm qua so sánh của thánh Phaolô: Hội thánh là thân thể Đức Kitô, không phải nghĩa vật lý, nhưng cao hơn nghĩa luân lý thường hiểu. Sự hợp nhất của Hội thánh với Chúa Giêsu thông qua ơn thánh. Ơn thánh là đời sống máu huyết của sự hợp nhất này. Nhờ đời sống ơn thánh, mọi tín hữu đã rửa tội là những chi thể, xây dựng nên thân xác thiêng liêng mà Đức Kitô là đầu, Ngôi Thứ Hai Đức Chúa Trời. Các tín hữu chia sẻ bản tính Ba Ngôi như thơ thánh Phêrô nói (II Pr 1,4). Các bí tích là những máng chuyển ơn thánh như chúng ta sẽ thấy sau này. Linh hồn của thể thống nhất ấy là Chúa Thánh Linh ngự trong mỗi thành viên. Như vậy trong Hội thánh chúng ta liên hệ với Chúa Giêsu chặt chẽ hơn các quan hệ tự nhiên, như với anh chị em, thậm chí cả mẹ ruột chúng ta. Chúng ta không những là thành viên của một gia đình, một xã hội, nhưng là thành viên của một thân thể. Có thể nói chúng ta liên hệ với Chúa Giêsu gần gũi hơn Ngài liên hệ với mẹ ruột Ngài, đức Maria. Vì đức Maria chỉ là mẹ trên bình diện tự nhiên, còn chúng ta sống kết hiệp như cành với thân cây nho. Dĩ nhiên nhìn theo khía cạnh thiêng liêng, Đức Maria cũng là thành phần của Hội thánh. Ngài cũng hưởng nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu, nhưng ở mức độ cao hơn. Chúng ta cũng liên quan với nhau trong cùng đường lối thắm thiết thiêng liêng ấy, tức như chi thể của một thân mình. Tình thân thiết của người ta với mẹ mình chỉ có tính tự nhiên, kém hơn tình thân ái trong Hội thánh.

BẢN THÂN KHÁC

Chúng tôi muốn lưu ý những ai muốn tìm hiểu Giáo hội, phải ngay từ khởi thủy, biết lượng giá chính xác về học thuyết trên. Học thuyết tỏ bày bản chất nội tại của Hội thánh. Hội thánh không phải chỉ là một tổ chức suông, như câu lạc bộ thể thao hoặc hiệp hội thương mại. nhưng hữu cơ hơn nhiều. Nếu chúng ta hiểu sai điểm này, là đã lầm lẫn lớn. Hội thánh thế chỗ cho Chúa Giêsu không phải như một công ty thế chỗ cho ông chủ sáng lập. Nhưng là một cơ quan sống động nhờ sức sống siêu nhiên của Đức Kitô. Thực tế, Hội thánh là bản thân khác của Đức Giêsu Kitô, là chính Đức Giêsu tràn đầy ơn phúc và sự thật, là sự nhập thể mới sau khi Ngài đã lên trời. Ngài sẽ đi qua muôn thế hệ, dậy dỗ, giảng giải, an ủi, ban phát lòng thương xót, chữa lành cho mọi người và ngợi khen Thiên Chúa, Cha trên trời của Ngài và ban ơn cứu độ cho nhân loại.

Những ai xưng mình là Kitô hữu, yêu mến Đức Giêsu, phục vụ Ngài hết mình, hy sinh mọi sự cho Ngài, sùng mộ Ngài, làm môn đệ Ngài, mà lại ghét Hội thánh của Ngài thì chẳng khác nào đao phủ cắt cổ Ngài khỏi thân xác. Giữ lấy cái đầu và vất bỏ cái thân. Một chút suy nghĩ cũng thấy là vô lý. Chúa Giêsu và Hội thánh qua bao nhiêu thế kỷ đã lạ lùng bảo toàn được căn cước và cái nhìn của mình.

Chúa Kitô, suốt cuộc đời công khai, đã bận tâm lo toan cho Hội thánh. Công việc của Ngài phải được tiếp tục sau khi Ngài lên trời và cho đến tận cùng thời gian. Vì vậy, Ngài đã nói với Giáo hội non trẻ: “Ai nghe các con là nghe Thày, ai khinh các con là kinh bỉ Thày” (Lc 10,16). Nghĩa là Ngài nên một với các Tông đồ. Chúng ta đã rõ Ngài trao quyền trọn vẹn cho thánh Phêrô, và ở cấp độ thấp hơn, cho các Tông đồ khác. Ngài hoàn toàn đồng hóa mình với Giáo hội. Ngài là chú rể, Hội thánh là cô dâu, cả hai đều một xương một thịt, hay nói như văn chương Việt Nam: tuy hai mà một, tuy một mà hai. Mỗi biến cố quan trọng của cuộc đời Ngài, mỗi tình cảm yêu thương của trái tim Ngài, Ngài đều ban cho Giáo hội hết. Các tín hữu tiên khởi ý thức đầy đủ chuyện này đến nỗi họ gọi các giám mục, linh mục là bản thân khác của Chúa Kitô hay ngắn gọn hơn: Đức Kitô khác (alter christus), bởi vì các vị sống và bước đi trên con đường Chúa Kitô, tiếp tục sứ vụ của Ngài trên thế giới. Khi họ làm, Ngài làm; họ yêu thương, Ngài yêu thương; khi họ cầu nguyện, Ngài cầu nguyện; khi họ dâng lễ hy sinh, Ngài dâng lễ; khi họ tha thứ, Ngài tha thứ; khi thời gian trôi đi họ chết và người khác lên kế vị và tiếp tục công việc của Ngài, tin tưởng rằng nó sẽ kéo dài đến tận thế. Chúa Kitô luôn ở với họ, là sức mạnh, là khát vọng, là nguồn sinh lực, là ảnh hưởng và sự hợp một của họ.

Chúng ta đã chứng minh, mặc cho phản bội nảy sinh từ bên trong, tấn công từ bên ngoài, Hội thánh công giáo vẫn hiên ngang tồn tại qua muôn thế kỷ. Nếu như Hội thánh chỉ là một tổ chức của thế gian, thì điều đó bất khả, Hội thánh sẽ chung số phận với các tổ chức khác. Nhưng trước hết, Hội thánh không phải là một tổ chức phàm trần, mà là sự kéo dài của Chúa Giêsu, Đấng là Thiên Chúa, cho nên Hội thánh không bao giờ tàn tạ, đơn giản vì Chúa Giêsu không bao giờ thất bại. Núi Calvariô sẽ nẩy sinh cuộc sống vinh hiển sau này.

HỘI THÁNH NGÀY NAY

Như vậy, Hội thánh công giáo ngày nay đứng riêng ra một mình, sở hữu đầy đủ ý nguyện của Chúa Giêsu. Ý nguyện, lợi ích, lý tưởng, mục tiêu của Chúa là ý nguyện, lợi ích, lý tưởng và mục tiêu của Hội thánh. Về căn bản, Hội thánh sử dụng lời nói, việc làm như Chúa đã khởi sự khi xưa và truyền cho Hội thánh tiếp tục. Đó là lý do các linh mục, các nhà giảng thuyết của Giáo hội nói với uy tín và quyền năng, cho dù họ được giáo dục ít hơn những kẻ nghe họ nói, hay kém hùng biện hơn. Họ có thể lỡ lời, lắp bắp khi nói, nhưng họ biết rằng và các thính giả của họ hiểu đàng sau họ là cả một thẩm quyền to lớn của Thiên Chúa làm người.

Những nội dung họ dạy dỗ, những điều Hội thánh ngày nay loan truyền không mảy may khác với Chúa Giêsu nói trên đường phố Giêrusalem ngày xưa. Cho nên những kẻ già miệng chỉ trích Giáo hội là cổ hủ lỗi thời hãy nhận ra mình sai lầm. Những màu nhiệm khó hiểu, những học thuyết thiêng liêng, Giáo hội chỉ lặp lại những dạy dỗ của Chúa Giêsu, thí dụ như Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng Thánh Linh, Bí tích Mình Máu Thánh, liên hệ linh hồn và thể xác, cõi vĩnh hằng; lên thiên đàng cần thiết phải có sự trợ giúp của ơn thánh, hỏa ngục tồn tại; thẩm quyền tối cao của Phêrô; cần thiết phải ăn chay, cầu nguyện, thống hối; hôn phối bền vững; giá trị của khó nghèo, thanh sạch. Tất cả những điều Hội thánh công giáo ngày nay còn dạy dỗ là vì Giáo hội vẫn nói với nhân loại bằng thứ tiếng không sai lầm của Chúa Giêsu.

Dĩ nhiên, trên thế giới vẫn có những loại người phàn nàn rằng: “lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi?” (Ga 6, 61) và họ lạu bạu về các chủ trương của Hội thánh, về mối dây hôn phối bền vững, về phá thai, ngừa thai, chết êm dịu, trợ tử… Nhưng thái độ không lay chuyển, không thỏa hiệp của Giáo hội phản ánh thái độ của Chúa Giêsu khi Ngài dậy dỗ về cùng một vấn đề.

Một trong những đường lối Giáo hội công giáo chứng minh cho thế giới tân thời rằng mình vẫn trung thành với Chúa Kitô là khăng khăng tuân giữ giới răn thứ nhất, yêu mến và phụng thờ Thiên Chúa, trong khi nhiều người ủng hộ thái độ nhân bản cực đoan, lãng tử bác ái, coi đó là tôn giáo của mình. Cái bận tâm thứ nhất của Hội thánh công giáo là bận tâm của Chúa Giêsu, trả về cho Thiên Chúa vinh quang và danh dự lớn hơn. Đó là lý do tại sao Giáo hội truyền lệnh cho mọi tín hữu phải tham dự thánh lễ Chúa nhật, tại sao lễ hy sinh phải được tiếp tục hiến dâng lên Thiên Chúa trong các thánh đường lớn nhỏ, tại sao các linh mục phải dùng phần lớn mỗi ngày đọc kinh nhật tụng ngợi khen Thiên Chúa.

Thêm vào đó, còn có một minh chứng khác mà các xã hội trên thế giới dù phàm tục hay tôn giáo không thể thực hiện nổi đó là tuân giữ giới răn thứ hai giống như giới răn thứ nhất: yêu người: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12, 31). Giáo hội công giáo, nhìn ngắm Chúa Kitô cao độ, nên lập tức yêu mến những ai Chúa Giêsu tỏ lòng thương xót dịu dàng nhất, đó là những kẻ nghèo hèn, đau khổ, mồ côi, các bà góa, bé thơ, bé mọn, bị ném ra ngoài lề xã hội, những tội nhân thống hối… Giáo hội yêu mến họ giống như Đức Giêsu, mà xây bệnh viện, nhà thương, viện mồ côi, nhà dưỡng lão, lớp học tình thương, mái ấm gia đình, viện tế bần cho họ.

Giáo hội không hô hào suông, nhưng miệng nói, tay làm, lập lại những hành động của Chúa Giêsu không mệt mỏi, không kết thúc. Hội thánh phân phát bẩy bí tích vì Chúa chỉ ban cho Giáo hội bẩy bí tích mà thôi, không ban nhiều hơn, không ban kém hơn. Và phụng vụ xoay quanh Thánh lễ, bởi vì Đức Kitô muốn rằng cuộc đời Ngài tập trung vào thánh lễ trên ngọn đồi Calvariô. Chúa Giêsu làm phép lạ, phép lạ cũng xảy ra trong Hội thánh ở Fatima, Lộ Đức, nơi các thánh. Vì thế, việc tuyên thánh là cần thiết. Bởi lẽ công việc của Chúa quá rõ ràng. Nếu người ta cất công đặt các lời nói, việc làm, ý nguyện của Chúa Kitô vào một cột và cột bên kia là lời nói, hành động và mục tiêu của Giáo hội thì ngạc nhiên mà thấy rằng chúng ăn khớp với nhau hoàn toàn. Bởi vì Hội thánh bày tỏ trọn vẹn cuộc đời Chúa Cứu Thế. Hội thánh đích thực là thân thể màu nhiệm của Ngài.

Mặt khác, nếu bạn muốn thấy Ngài sinh ra trong nghèo khó, cô đơn, vây quanh bằng các thụ tạo hèn hạ nhất, thì hãy chiêm ngắm Giáo hội sơ khai khi các thành viên đầu tiên của Hội thánh chỉ là những ngư phủ nghèo nàn, dốt nát, tội lỗi, đơn sơ, chân chất. Nếu bạn muốn tìm thấy lòng khao khát chân lý của các đạo sĩ phương Đông, sự hận thù cay đắng của Hêrôđê, cuộc tàn sát các trẻ em ở Belem, cuộc chạy trốn sang Ai cập, thì hãy nhìn xem gương mặt tiên khởi của Hội thánh, là dấu hiệu cho lòng yêu mến thắm thiết đồng thời sự thù hận cao độ. Bách hại đã đẩy Giáo hội vào sống trong các hang toại đạo, các chốn lưu đày, các cuộc chém giết, các Coloseum. Họ tử đạo khắp mọi miền trên thế giới giống như thày mình trên ngọn đồi Golgotha.

Nếu muốn tìm trong Giáo hội thời hiện đại cuộc đời ẩn dật của Chúa Giêsu thì hãy nhìn vào các ẩn sĩ, các tu sĩ chiêm niệm, các dì phước âm thầm, họ dâng hiến toàn bộ cuộc sống cho Thiên Chúa ngõ hầu thăng tiến đời sống siêu nhiên. Nếu muốn tìm kiếm cuộc đời công khai của Chúa thì hãy nghiền gẫm kỹ lịch sử hơn hai ngàn năm đầy chông gai, bách hại của Hội thánh. Quý vị sẽ nghiệm ra: Giống Chúa Kitô, Hội thánh đã trải qua tình yêu tha thiết và ghen ghét cháy bỏng. Giống Thày chí thánh, Giáo hội thu hút người ta thuộc mọi tầng lớp, mọi dân tộc, quốc gia, người giàu, kẻ nghèo, học thức, mù chữ, tuổi tác, vua chúa, bề tôi, không loại trừ một hạng người nào. Giống như Chúa Kitô, suốt lịch sử dài, Hội thánh cháy lửa tìm kiếm các linh hồn để cứu giúp họ khỏi hỏa ngục, luôn luôn nhận thêm nhiều thành viên mới trong mọi lãnh vực để đưa về đàn, đồng thời chăm sóc các người đau yếu, kẻ bệnh hoạn trong đàn.

Tuy nhiên vẫn còn những kẻ tuyên bố rằng rồi ra Hội thánh sẽ chết và biến mất khỏi mặt đất này, chúng ta phải thoát ra khỏi cái quá khứ cũ mục nát và xây dựng một xã hội mới trên nền tảng mới. Nhưng như Chúa Kitô, Giáo hội coi thường Calvario. Hội thánh trỗi dậy và trỗi dậy nhiều lần sau khi bị đóng đinh, để sống mãi mãi trong khi các kẻ thù loạng choạng đi vào tối tăm của các mồ mả. Giống như bão tố biển hồ Galilêa, dù giận dữ cũng không nhấn chìm nổi con thuyền của Phêrô, thì dù ghen ghét đầy trời, dù nọc độc của thế kỷ đương đại cũng chẳng thể tàn phá Giáo hội của Chúa Kitô.

TRÁCH NHIỆM

Về phần chúng ta, phải luôn nhớ rằng chúng ta là Giáo hội. Chúng ta là tế bào của thân thể màu nhiệm. Tế bào hay chi thể phải là hình ảnh của thủ cấp. Vì vậy, thánh Phaolô khuyên các tín hữu: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu Kitô” (Pl 2,5) “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi, mà tôi phải quặn đau sinh ra một lần nữa, cho đến khi Đức Kitô được thành hình nơi anh em” (Gl 4,19). Một trong những lý lẽ mạnh nhất chống lại Giáo hội là của những ai nhìn vào nó một cách hời hợt. Họ chẳng xem thấy vẻ rực rỡ của hình ảnh Đức Kitô. Họ nói về Thánh Thể “Tôi chẳng thấy Đức Kitô đâu? Tôi chỉ thấy tấm bánh mì”. Họ cũng nói về Giáo hội: “Chẳng phải Đức Giêsu, chỉ là những người trần.” Dĩ nhiên, khi xuống thế làm người Ngôi Hai đảm nhận một thân xác với tất cả giới hạn của nó: Yếu đuối, đau khổ, chế chóc, tự do, trí tuệ. Thì khi Ngài thiết lập một Giáo hội cũng vậy. Nó là một xã hội với đầy đủ tính chất phàm tục: những yếu đuối, thiếu xót, giới hạn, tuy nhiên ban cho nó một quyền năng dù cửa hỏa ngục cũng không thắng nổi. Vậy chúng ta có hai trách nhiệm: làm cho Hội thánh lớn lên giống hình ảnh Chúa Giêsu và mở rộng đến mọi người sống trên trái đất. Nhiệm vụ thứ nhất Hội thánh sử dụng các bí tích. Nhiệm vụ thứ hai Tông đồ truyền giáo, cầu nguyện và gương sáng, đặc biệt, các hội đoàn công giáo tiến hành.

Tất cả chúng ta đều là chi thể Chúa Giêsu, là viên gạch xây nên tòa nhà Hội thánh. Mỗi người đều có phận sự của mình làm cho Hội thánh am hợp với thời đại, hướng dẫn nhân loại và sửa chữa lỗi lầm của nó. Đừng trở nên những viên gạch thối vô dụng. Nhưng phải là những viên gạch cường tráng, hữu ích cho việc xây dựng ngôi nhà. Chẳng ai thực sự thấu triệt bản chất của Hội thánh mà lại từ chối dâng mình làm nhân viên của Chúa Thánh Thần, linh hồn của Giáo hội, trong nhiệm vụ thánh hóa và cứu rỗi nhân loại. Hiện thời, Chúa Kitô sống động trong Hội thánh. Nhưng Ngài không có tay nào khác ngoài bàn tay của chúng ta để nuôi dưỡng các kẻ nghèo, Ngài không có chân nào khác ngoài chân của các tín hữu để đi thăm viếng những người bệnh hoạn, tật nguyền. Ngài chẳng có miệng nào khác ngoài miệng của những kẻ theo Ngài để giảng dạy sự thật cho thiên hạ. Vậy chúng ta hãy cho Ngài mượn các cơ quan của mình để tiếp tục công trình cứu độ. Thiếu chúng ta, Ngài không hành động được chi. Bởi vì theo thánh Phaolô chúng ta là bổ túc của Ngài. Cho nên rõ ràng công việc tông đồ giáo dân là cần thiết, nó là hệ quả của suy tư về thân thể màu nhiệm Chúa Kitô. Ngược lại, nó là bản án cho những ai ích kỷ, sống không bác ái, giết chết đời thiêng liêng. Những lý luận như tôn giáo là việc riêng tư, hồn ai người ấy giữ, không liên quan gì tới tôi, nếu hắn muốn cứ để hắn xuống hỏa ngục, và những câu nói tương tự, chứng tỏ họ không hiểu gì hết. Chúng ta liên hệ chặt chẽ với nhau như những tế bào trong một cơ thể sống động, là chi thể trong thân mình màu nhiềm Chúa Kitô. Nếu chúng ta rời bỏ thân thể đó, chúng ta sẽ trở nên khô héo và sẽ chết đi. Hội thánh là bản thân khác của Chúa Giêsu. Nếu chúng ta muốn dâng hiến cho Ngôi vị Ngài lòng trung thành, sự vâng phục, lễ hy sinh, những phục vụ, tình yêu và chân lý thì chúng ta dâng hiến cho Hội thánh Ngài còn đang sống động trên thế giới.

Thánh Augustinô hỏi: “Hội thánh là gì?” Và ngài trả lời: “Là thân thể Chúa Kitô”. Nếu chúng ta nối kết với Đầu, chúng ta sẽ có một con người trọn vẹn. Đầu và thân thể làm nên một người. Ai là Đầu? Là Đấng được sinh ra bởi Trinh Nữ Maria… Ai là thân thể? Là hiền thê Ngài, Hội thánh… Đức Chúa Cha muốn rằng cả hai Đức Kitô và Hội thánh phải trở nên một.

Tất cả mọi người đều là một trong Đức Kitô và sự kết hợp của mọi tín hữu tạo nên một người.

“Chúng ta hãy vui mừng và tạ ơn Thiên Chúa, vì không những chúng ta là các tín hữu, nhưng còn là Kitô khác. Hãy cảm phục, hãy vui mừng vì chúng ta là tín hữu. Nếu Ngài là Đầu, thì chúng ta là chi thể, là tế bào, là thành viên. Vậy thì Ngài và chúng ta là một thân thể.”


Donnerstag, Januar 10, 2013

Bài Giáo Lý của ĐTC về Năm Đức Tin: Căn Tính của Chúa Giêsu
 
Phaolô Phạm Xuân Khôi  1/9/2013
 
 
“Điều xảy ra trong Đức Mẹ Maria, nhờ tác động của Thần Khí Thiên Chúa, là một việc tạo dựng mới.”

Dưới đây là bản dịch Bài Giáo Lý thứ mười một của ĐTC Bênêđictô XVI về Năm Đức Tin, được ban hành tại Sảnh Đường Phaolô VI hôm thứ tư ngày 2 tháng 1, 2013. Hôm nay ĐTC dạy tiếp tục loạt Bài Giáo Lý về Đức Tin.
* * *


Anh chị em thân mến,

Lễ Giáng sinh của Chúa một lần nữa chiếu ánh sáng vào những bóng tối thường bao phủ thế gian và tâm hồn của chúng ta, cùng mang lại niềm hy vọng và niềm vui. Ánh sáng này từ đâu đến? Từ hang đá Bethlehem, nơi các mục đồng tìm thấy “Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse, cùng Hài Nhi nằm trong máng cỏ” (Lc 2:16). Trước Thánh Gia này phát sinh một câu hỏi khác sâu xa hơn là: làm sao mà Hài Nhi bé nhỏ và yếu đuối này đã mang lại một sự mới lạ triệt để trên thế gian để thay đổi dòng lịch sử? Chẳng phải là có một điều gì mầu nhiệm trong nguồn gốc của Người vượt ra ngoài hang đá ấy hay sao?

Câu hỏi về nguồn gốc của Chúa Giêsu luôn được người ta nhắc đi nhắc lại, cùng là một câu hỏi của quan Phongxiô Philatô trong phiên xử: “Ông từ đâu đến?” (Ga 19:29). Tuy nhiên, nguồn gốc của Người lại thật rõ ràng. Trong Tin Mừng Thánh Gioan, khi Chúa quả quyết: “Ta là bánh từ trời xuống,” người Do Thái phản ứng bằng cách lẩm bẩm với nhau, “Ông này không phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Chúng ta chẳng biết cha mẹ ông ta sao? Làm sao ông ta có thể nói, ‘Ta từ trời xuống?’” (Ga 6:42). Và, chẳng bao lâu sau đó, các công dân của Giêrusalem đã kịch liệt chống lại việc Chúa Giêsu tự nhận là Đấng Mêsia khi họ nói rằng “Nhưng chúng ta biết ông ta từ đâu đến; mà khi Đấng Mêsia đến, thì không ai biết Ngài từ đâu đến” (Ga 7:27). Chính Chúa Giêsu đã vạch ra việc họ nghĩ rằng họ biết nguồn gốc của Người là điều thiếu sót như thế nào, và cũng cung cấp một hướng đi để biết Người từ đâu đến: “Tôi không tự mình mà đến. Ðấng đã sai Tôi là Ðấng chân thật, mà các ông không biết Ngài.” (Ga 7:28). Tất nhiên, Chúa Giêsu phát xuất từ Nadareth, sinh ra tại Bethlehem, nhưng người ta biết gì về nguồn gốc thật sự của Người?

Trong bốn Tin Mừng, câu trả lời cho câu hỏi Chúa Giêsu “từ đâu” đến trở nên rõ ràng hơn: nguồn gốc thực sự của Người là Đức Chúa Cha, Thiên Chúa. Người đến hoàn toàn từ Ngài, nhưng bằng một cách khác biệt với bất kỳ ngôn sứ nào được Thiên Chúa sai đến trước Người. Điều này bắt nguồn từ mầu nhiệm của Thiên Chúa, là Đấng “không ai biết”, đã được chứa đựng trong tường thuật thời thơ ấu của các Tin Mừng Thánh Matthêu và Thánh Luca, mà chúng ta đọc trong mùa Giáng Sinh này. Thiên sứ Gabriel tuyên bố: “Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Ðấng Tối Cao sẽ bao phủ (rạp bóng) bà; vì vậy, Con Trẻ sắp sinh ra sẽ được gọi là Ðấng Thánh, là Con Thiên Chúa.” (Lc 1:35). Chúng ta lặp lại những lời này mỗi lần chúng ta đọc kinh Tin Kính, lời tuyên xưng đức tin: “et incarnatus est de Spiritu Sancto, ex Maria Virgine,” “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria”. Trong câu này, chúng ta quỳ xuống [bản tiếng Anh dịch là cúi đầu] bởi vì bức màn che khuất Thiên Chúa có thể nói là được vén lên, và mầu nhiệm khôn dò và không thể tiếp cận được của Ngài trực tiếp chạm đến chúng ta: Thiên Chúa trở thành Đấng Emmanuel, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Khi chúng ta lắng nghe các bộ hát Thánh Lễ được sáng tác bởi các bậc thầy vĩ đại của thánh nhạc, thí dụ như Bộ Đại Thánh Lễ của Mozart, tôi thiết nghĩ rằng chúng ta nhận ngay ra rằng người ta ngừng lại một cách đặc biệt ở câu này, như thể để cố gắng diễn tả bằng ngôn ngữ phổ quát của âm nhạc điều mà lời nói không thể nào diễn tả nổi: mầu nhiệm cao cả của Thiên Chúa nhập thể, làm người.

Nếu chúng ta xem xét cẩn thận lời cụm từ “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria,” chúng ta thấy rằng cụm từ này bao gồm bốn chủ thể hành động. Chúa Thánh Thần và Đức Mẹ Maria được đề cập một cách rõ ràng, nhưng “Người”, nghĩa là Chúa Con, Đấng đã trở thành nhục thể trong lòng Đức Trinh Nữ, được hiểu ngầm. Trong lời tuyên xưng đức tin, Kinh Tin Kính, Chúa Giêsu được nhắc đến bằng những danh hiệu khác nhau: “Lạy Chúa, ... Đức Kitô, Con Một Thiên Chúa ... Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật ... đồng bản thể với Đức Chúa Cha” (Nicene-Constantinople). Như thế chúng ta thấy rằng “Người” ám chỉ một ngôi vị khác, là Chúa Cha. Do đó chủ thể thứ nhất của câu này là Chúa Cha, Đấng là Thiên Chúa duy nhất cùng với Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Lời khẳng định này của Kinh Tin Kính không nói về hữu thể vĩnh cửu của Thiên Chúa, mà đúng hơn là nói về một hành động có sự tham gia của Thiên Chúa Ba Ngôi và được thể hiện “ex Maria Virgine (bởi Đức Trinh Nữ Maria)”. Nếu không có Mẹ, việc Thiên Chúa bước vào lịch sử nhân loại sẽ không đạt đến cùng đích của nó và điều là trung tâm của lời tuyên xưng đức tin của chúng ta: Thiên Chúa là một Thiên Chúa ở cùng chúng ta, cũng không xảy ra. Vì vậy, Đức Mẹ, một cách không thể chối cãi được, thuộc về đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa, là Đấng hành động, là Đấng can thiệp vào lịch sử. Mẹ hiến dâng toàn thể con người của Mẹ, “đồng ý” trở thành nơi cư ngụ của Thiên Chúa.

Đôi khi, ngay cả trong cuộc hành trình và cuộc sống đức tin của mình, chúng ta có thể cảm thấy sự nghèo nàn của mình, sự bất cập của mình trước việc làm chứng tá để cung ứng cho thế giới. Nhưng Thiên Chúa đã chọn một người phụ nữ khiêm hạ, trong một ngôi làng vô danh, trong một tỉnh hẻo lánh nhất của đại đế quốc Rôma. Ngay cả giữa những vấn đề khó khăn nhất phải đương đầu, chúng ta phải luôn luôn tin tưởng vào Thiên Chúa, đổi mới đức tin vào sự hiện diện và hành động của Ngài trong lịch sử của chúng ta, như của Đức Mẹ Maria. Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể được! Với Ngài, cuộc sống của chúng ta luôn luôn bước đi trên đất vững vàng và mở ra cho một tương lai đầy hy vọng chắc chắn.

Khi tuyên xưng lời Kinh Tin Kính: “bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria,” chúng ta khẳng định rằng Chúa Thần Thánh, như quyền năng của Thiên Chúa Tối Cao, đã làm việc một cách mầu nhiệm trong việc thụ thai Con Thiên Chúa của Đức Trinh Nữ Maria. Thánh sử Luca ghi lại lời của Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel, “Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao phủ bà” (1:35). Có hai quy chiếu rõ ràng: thứ nhất là vào lúc tạo dựng. Ở đầu Sách Sáng Thế Ký, chúng ta đọc rằng “Thần Khí của Thiên Chúa đã là là trên mặt nước” (1:2); chính Thần Khí Tạo Dựng, là Đấng ban sự sống cho tất cả mọi sự và nhân loại.

Điều xảy ra trong Đức Mẹ Maria, nhờ tác động của Thần Khí Thiên Chúa, là một việc tạo dựng mới: Thiên Chúa, Đấng làm cho mọi sự hiện hữu từ hư không, nhờ mầu nhiệm Nhập Thể ban sự sống cho một khởi đầu mới của nhân loại. Các Giáo Phụ thường nói về Đức Kitô như Adam mới, để đánh dấu sự khởi đầu của việc tạo dựng mới từ việc giáng sinh của Con Thiên Chúa trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Điều này làm cho chúng ta suy nghĩ về cách thế làm sao để đức tin cũng làm phát sinh trong chúng ta một sự mới mẻ mạnh mẽ đến độ gây ra một cuộc tái sinh. Thực ra, ngay từ đầu đời sống Kitô hữu đã có bí tích rửa tội làm cho chúng ta được tái sinh thành con cái Thiên Chúa, chúng ta được thông phần vào mối liên hệ con thảo của Chúa Giêsu với Chúa Cha. Tôi muốn vạch ra rằng Bí Tích Rửa Tội mà chúng ta đã lãnh nhận, việc chúng ta “được rửa tội”, là điều thụ động - bởi vì không ai tự mình có khả năng trở thành con cái Thiên Chúa: đó là một món quà nhưng không. Thánh Phaolô nhắc đến việc được nhận làm nghĩa tử này của các Kitô hữu trong một đoạn chính của Thư gửi tín hữu Rôma, ngài viết: “Tất cả những ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa. Vì anh em đã không nhận được thần khí nô lệ làm cho anh em lại phải sợ hãi, nhưng anh em đã nhận Thần Khí làm nghĩa tử, bởi đó cho chúng ta kêu lên, ‘Abba! Cha ơi’” Chính Thần Khí làm chứng cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa.” (8:14-16), chứ không là nô lệ. Chỉ khi nào chúng ta mở lòng ra cho Thiên Chúa, như Đức Mẹ Maria, chỉ khi nào chúng ta phó thác cuộc đời của mình cho Chúa như một người bạn mà chúng ta hoàn toàn tin tưởng, thì mọi sự sẽ thay đổi, cuộc đời của chúng ta sẽ có một ý nghĩa mới và một khuôn mặt mới: khuôn mặt của những người con của một Chúa Cha, Đấng đã yêu thương chúng ta và không bao giờ ruồng bỏ chúng ta.

Chúng ta đã nói về hai yếu tố: yếu tố thứ nhất là Thần Khí trên mặt nước, Thần Khí Tạo Dựng; còn có một yếu tố khác trong những lời Truyền Tin.

Thiên sứ nói cùng Đức Mẹ Maria: “Quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ bao trùm bà”. Đó là một lời nhắc đến đám mây thánh trong cuộc hành trình Xuất Hành, ngừng lại ở Hội Mạc (Lều Tạm), hòm bia giao ước, mà dân Israel đem theo với họ, và biểu thị sự hiện diện của Thiên Chúa (x. Xh 40 ,40:34-38). Như thế Đức Mẹ Maria là Lều Tạm thánh mới, là Hòm Bia mới của Giao Ước: qua lời thưa “xin vâng” của Mẹ với những lời của Tổng Lãnh Thiên Thần, Thiên Chúa nhận được một nơi cư ngụ trong thế gian này, Đấng mà cả vũ trụ không thể chứa nổi đã đến để cư ngụ trong cung lòng một trinh nữ.

Như thế, chúng ta hãy trở lại câu hỏi mà chúng ta đã mở đầu, nguồn gốc của Chúa Giêsu, được tổng hợp bởi câu hỏi của Philatô: “Ông từ đâu đến?” Những suy nghĩ của chúng ta làm sáng tỏ, từ đầu các sách Tin Mừng, nguồn gốc thực sự của Chúa Giêsu là gì: Người là Con Một Chúa Cha, Người đến từ Thiên Chúa. Chúng ta đứng trước mầu nhiệm cao cả và sửng sốt mà chúng ta cử hành trong Mùa Giáng Sinh này: Con Thiên Chúa, nhở tác động của Chúa Thánh Thần, đã nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria. Đây là một lời loan báo vang lên âm thanh luôn luôn mới mẻ, và mang trong nó niềm hy vọng và niềm vui cho tâm hồn chúng ta, bởi vì mỗi lần lời loan báo ấy vang lên nó ban cho chúng ta sự chắc chắn rằng, mặc dù chúng ta thường cảm thấy yếu đuối, nghèo nàn, không có khả năng đương đầu với những thách thức và sự dữ trong thế gian, quyền năng của Thiên Chúa luôn luôn hoạt động và thực hiện những kỳ công trong sự yếu đuối. Ân sủng của Ngài là sức mạnh của chúng ta (x. 2 Cor 12:9-10). Cảm ơn anh chị em.